TP. Huế khoanh định vùng cấm, hạn chế khai thác nguồn nước dưới đất

UBND TP. Huế vừa ban hành danh mục và bản đồ phân vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất, với 2 vùng cấm và 135 vùng hạn chế, nhằm bảo vệ nguồn nước, ngăn ngừa sụt lún, xâm nhập mặn và khai thác bền vững tài nguyên nước.

UBND TP. Huế đã ban hành quyết định phê duyệt danh mục, bản đồ phân vùng cấm và vùng hạn chế khai thác nước dưới đất trên địa bàn thành phố. Việc khoanh định này nhằm theo dõi biến đổi động thái, chất lượng nước dưới đất theo thời gian; dự báo nguy cơ cạn kiệt, ô nhiễm nguồn nước; đồng thời làm cơ sở cho công tác quản lý, thẩm định và cấp phép khai thác tài nguyên nước dưới đất.

 TP. Huế khoanh định 2 vùng cấm và 135 vùng hạn chế khai thác nước dưới đất. Ảnh minh họa

TP. Huế khoanh định 2 vùng cấm và 135 vùng hạn chế khai thác nước dưới đất. Ảnh minh họa

TP. Huế xác định 2 vùng cấm khai thác nước dưới đất, với tổng diện tích 0,764 km2. Đây là các khu vực đã xảy ra sụt, lún đất, tiềm ẩn rủi ro cao nếu tiếp tục khai thác nước ngầm. Cụ thể, khu vực xã Phong Xuân cũ (nay là phường Phong Điền) có diện tích cấm 0,76 km2; khu vực xã Hương Lộc cũ (nay là xã Khe Tre) có diện tích cấm 0,004 km2.

Tại các vùng cấm này, cơ quan chức năng cấm toàn bộ hoạt động thăm dò nước dưới đất, xây dựng mới công trình khai thác nước dưới đất, kể cả việc khai thác, sử dụng nước dưới đất phục vụ sinh hoạt của hộ gia đình. Đối với các công trình đã được cấp phép hoặc đã đăng ký khai thác, sử dụng nước dưới đất, tổ chức, cá nhân phải dừng khai thác; cơ quan quản lý nhà nước sẽ thực hiện thu hồi giấy phép, điều chỉnh tiền cấp quyền khai thác tài nguyên nước theo thẩm quyền và yêu cầu trám lấp giếng theo quy định.

Trường hợp khai thác nước dưới đất không có giấy phép hoặc không đăng ký, ngoài việc buộc dừng khai thác, cơ quan chức năng sẽ xử lý vi phạm theo thẩm quyền và yêu cầu trám lấp giếng. Riêng đối với các hộ gia đình hiện khai thác nước dưới đất phục vụ sinh hoạt, việc trám lấp giếng được thực hiện sau khi đã có nguồn nước thay thế phù hợp.

 Kịch bản nguồn nước trên lưu vực sông Hương (TP. Huế) cũng đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố.

Kịch bản nguồn nước trên lưu vực sông Hương (TP. Huế) cũng đã được Bộ Tài nguyên và Môi trường công bố.

Bên cạnh vùng cấm, TP. Huế còn xác định 135 vùng, khu vực hạn chế khai thác nước dưới đất (vùng hạn chế 1), với tổng diện tích 198,6 km2. Đây là các khu vực có nguy cơ sụt, lún đất ở vùng liền kề nơi đã xảy ra sụt, lún; hoặc khu vực có nguồn nước dưới đất có nguy cơ bị xâm nhập mặn, liền kề các vùng đã nhiễm mặn với hàm lượng tổng chất rắn hòa tan từ 1.500 mg/l trở lên.

Trong số này, vùng hạn chế 1A - khu vực có nguy cơ sụt, lún đất gồm 2 vùng, tổng diện tích 8,16 km2. Vùng hạn chế 1B - khu vực có nguy cơ xâm nhập mặn gồm 133 vùng, với tổng diện tích 190,44 km2. Theo quyết định, tại TP. Huế không có vùng hạn chế 2 (khu vực có mực nước dưới đất suy giảm liên tục và có nguy cơ vượt ngưỡng khai thác), cũng không có vùng hạn chế hỗn hợp.

UBND TP. Huế giao UBND cấp xã phối hợp với Sở Nông nghiệp và Môi trường thành phố tổ chức khoanh định, công bố danh mục và bản đồ phân vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất; đồng thời giám sát các tổ chức, cá nhân trên địa bàn trong việc chấp hành các quy định cấm, hạn chế khai thác theo phương án được phê duyệt.

Theo Sở Nông nghiệp và Môi trường TP. Huế, việc điều tra, đánh giá và khoanh định các vùng cấm, vùng hạn chế khai thác nước dưới đất là cơ sở quan trọng để bảo vệ nguồn nước ngầm, khai thác phù hợp theo tiềm năng và chất lượng của các tầng chứa nước, hướng tới sử dụng bền vững nguồn tài nguyên nước dưới đất quý giá của thành phố.

Ngọc Văn

Nguồn Tiền Phong: https://tienphong.vn/tp-hue-khoanh-dinh-vung-cam-han-che-khai-thac-nguon-nuoc-duoi-dat-post1806585.tpo