Trách ai ăn giấy bỏ bìa
Có câu ca dao đã khiến chúng ta lâu nay tranh cãi và quyết tìm hiểu cho bằng được: 'Trách ai ăn giấy bỏ bìa/ Khi thương thương vội khi lìa lìa xa'. Xét về phép đối xứng, ắt phải là 'thương vội'/ 'lìa mau' mới chuẩn chứ nhỉ? Xin thưa, 'lìa mau' vẫn còn có lúc gặp lại; chứ chưa nói hết cái ý bẽ bàng, cay đắng của 'lìa xa' là kẻ đó đã 'qua cầu rút ván', 'một đi không trở lại', chớ có trông mong gì nữa.
Ta hiểu sao cho đúng về từ ăn/ăn giấy trong câu ca dao này?
Hiểu thế nào, ta bàn sau nhưng trước hết cần dừng lại với từ “ăn”. Nhà văn Nguyễn Tuân kể lúc lên chơi chùa Yên Tử: “Ngọn đèn vừa tỏ bấc thì sư cụ Tâm Hoan cũng sà xuống cái bục gỗ mọt lát của ngôi chùa nghèo. Ông Ph.Đ thủ lễ đứng dậy xin lỗi và xin phép nhà chùa để ăn thuốc” (Tàn đèn dầu lạc); lại kể có người khen ông phán En-Lờ: “Gớm, người anh em dạo này mát mặt quá, lại mua được cả radio để ăn thuốc” (Ngọn đèn dầu lạc). Dù dùng từ “ăn” nhưng “ăn thuốc” lại hàm nghĩa là hút của dân làng bẹp, tiếng lóng còn gọi dân “ken cờ” là chỉ hạng người nghiện thuốc phiện.

Kỹ thuật làm giấy ngày xưa.
Tùy ngữ cảnh, thay vì dùng từ “ăn” người ta còn dùng từ “xơi”, chẳng hạn, “Vào vườn hái quả cau xanh/ Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu” hoặc “Lạy trời cho cả gió nồm/ Cho kẹo tôi chảy cho mồm tôi xơi” (ca dao)… Thế nhưng không chỉ có thế, trong tiểu thuyết “Lều chõng”, nhà văn Ngô Tất Tố viết: “Ông chủ nhà trọ hớn hở bưng đĩa mứt bí ở nhà dưới lên và đặt vào cạnh khay nước, rồi đon đả vừa cười vừa nói: - Xin rước các quan xơi nước”. “Xơi” đây nghĩa là uống, thật ngoạn mục. Hoặc từ “dùng”, chẳng hạn, trong truyện ngắn “Những chiếc ấm đất”, nhà văn Nguyễn Tuân viết lúc sư thầy trò chuyện: “Rồi kéo cụ Sáu vào trai phòng dùng một tuần nước”. “Tuần” có nghĩa lần, lượt, ở đây hai người chỉ uống một lượt nước đổ đầy ấm sau khi đã cho trà vào đó, uống hết một ấm trà này rồi thôi, chứ không nhiều hơn.
Ngày xưa, cúng tế ở đình làng, tất nhiên có rượu, trầu cau, sau đó, người ta cũng uống cũng ăn nhưng cách gọi lại khác. Chẳng hạn, ai được uống rượu đã dâng cúng thần ở đình làng gọi là “ẩm phúc” - ý nói uống lấy sự may mắn, được phúc. Trầu cau thì sao? Trong tác phẩm “Nhà nho” của Chu Thiên có đoạn:
Ồng Hai Tín bưng cơi trầu ra mời Tuyết:
- Xin rước cô mời khẩu trầu lộc thánh.
Cô tươi cười từ chối:
- Rước các cụ ạ, cháu không biết ăn trầu.
Còn oản trên bàn thờ Phật, người ta dùng từ gì? Cũng trong truyện ngắn trên của nhà văn Nguyễn Tuân còn có chi tiết sư thầy nói với chàng trai trẻ: “Cháu đi từ sớm, chắc bây giờ đã ngót dạ rồi; sẵn oản chuối vừa hạ xuống, già ép cháu thụ một ít lộc Phật”. “Thụ” là nhận lấy. Nhận để ăn, vì thế mới có câu trả lời: “Bạch cụ, cháu ăn mặn ở nhà vẫn còn lửng dạ”. Sư thầy dùng từ tinh tế đến thế là cùng. Trong ngữ cảnh này, dù là ăn nhưng các từ xơi, đớp, chén, nhai, hốc, táp, tọng, ngoạm…; dù là uống nhưng các từ nốc, tợp, nhắp, húp, tu, xơi…, tạm thời “đi chỗ khác chơi”, chớ lân la, béng mảng mà rườm tai thiên hạ.
Về từ “xơi”, một khi đã ăn uống bao giờ người cũng tuân nguyên tắc “ăn chín, uống chín” là thức ăn nấu chín, nước đun sôi nhưng với câu nói, thí dụ, một người kể: “Trong trận đó, cả đại đội đối phương đã bị quân ta xơi tái” là chúng bị ăn tươi nuốt sống? Không, hàm nghĩa là bị tiêu diệt ở mức độ nhanh, gọn.
Trở lại với câu “Trách ai ăn giấy bỏ bìa”, ta hiểu là “ăn” ra làm sao? Nhà văn Nguyễn Đức Lập chia sẻ trên trang Facebook cá nhân: “Ngồi trên bộ ván ngựa, bà Ba Thời trải rộng tờ giấy quyến, lớn bằng tờ nhật trình khổ lớn. Bà cẩn thận xếp đôi chiều dọc của tờ giấy, bà xếp đôi nữa, rồi lại xếp đôi nữa. Bà dùng dao rọc theo những lằn xếp. Tờ giấy, như vậy, được rọc ra thành tám mảnh, chiều dài vẫn giữ y nguyên. Tự nhiên, bà nói: Rọc giấy như vậy kêu bằng ăn giấy. Miếng giấy, tao rọc làm 8 vun, kêu bằng ăn 8, nhiều người hà tiện, rọc thành 16 vun, kêu bằng ăn 16. Nhưng giấy ăn 16, điếu thuốc ngắn ngủn, kéo chưa đủ 3 hơi đã hết. Tao thà chịu tốn giấy, ăn 8, đặng vấn điếu nào đáng điếu nấy, hút mới đã. Không chờ không đợi mà tôi còn mừng hơn là khi không bắt được vàng thoi bạc nén vì bỗng dưng, bà ngâm nga:
Trách ai ăn giấy bỏ bìa
Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa
Bà cắt nghĩa liền: Thằng Tám, mày thấy không? Giấy quyến đâu có bìa, hổng có cái gì đáng mà phải bỏ hết. Vậy mà có những kẻ ăn giấy, bày đặt bỏ trên, bỏ dưới, bỏ tả, bỏ hưụ̃. Những kẻ ăn giấy bỏ bìa này chánh thị là ba cái quân điệu bộ kiểu cách lỏng nhách, mà lại kiêu căng phí phạm bạc hẳn không ai bằng”. Từ giải thích này, tác giả viết tiếp: “Té ra, giấy ở đây là giấy quyến để vấn thuốc, và ăn giấy là như vậy đó, chớ giấy không lẽ bỏ vô miệng mà ăn được. Và, có nghe bà Ba Thời giải thích như vậy, tôi mới hiểu được tại sao cái kẻ "ăn giấy bỏ bìa" lại "khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa" (Hết trích).
Qua giải thích này, về chữ nghĩa, ta thấy gì?
“Miếng giấy, tao rọc làm 8 vun”, vun trong ngữ cảnh này tức là 8 mảnh rời ra dùng để vấn thuốc. Có lẽ “vun” là phương ngữ vùng miền, vì tìm trong từ điển do người miền Nam biên soạn như “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895), chỉ có giải thích: “Vun: Đắp lên, đổ đống, cơi lên”; “Từ điển phương ngữ Nam Bộ” (1994) do Nguyễn Văn Ái chủ biên còn cho biết có từ “vun chùn: đầy tràn” tức đầy có ngọn”; “Phương ngữ Nam Bộ” (2005) của Bùi Thanh Kiên kể thêm “vun lù: đầy lắm, gần tràn ra ngoài”.
Hiểu “vun” là các mảnh rời ra bằng nhau (như giấy quyến dùng vấn thuốc hút), nếu đúng vậy phải viết “vuông” là hiểu theo nghĩa: “Một miếng gần như có các cạnh bằng nhau” - theo “Phương ngữ Nam Bộ” (2005)? Không đâu, viết đúng chính tả phải là “Dun: Phần nhỏ tờ giấy quyến rọc theo bề dài để vấn thuốc hút: Rọc thành 6 dun” - “Việt Nam tự điển” (1970) của Lê Văn Đức, do Lê Ngọc Trụ hiệu đính; “Dun giấy: miếng giấy dài và hẹp có bề ngang bằng bề dài điếu thuốc vấn. Người ta xếp tờ giấy quyến thành nhiều lớp và dùng dao rọc” - “Phương ngữ Nam Bô”å (2005) cho biết.
Rõ ràng “dun” chứ không phải “vun”.
Còn “ăn giấy” thì sao?
Vậy, khi rọc giấy quyến ra nhiều dun vấn thuốc để hút có gọi là “ăn giấy”? Như đã biết từ “ăn” vốn có nhiều nghĩa, trong đó còn có nghĩa: “Chia ra làm nhiều phần, chấp, trị giá: Ăn giấy, ăn năm, ăn sáu, 1 đồng ăn 8…” - theo “Việt Nam tự điển” (1970). Vậy, khi bà Ba Thời giải thích: “Rọc giấy như vậy kêu bằng ăn giấy” là chính xác, bởi tờ giấy đó đã được “chia ra làm nhiều phần”.
Và, bà nói tiếp: “Giấy quyến đâu có bìa, hổng có cái gì đáng mà phải bỏ hết. Vậy mà có những kẻ ăn giấy, bày đặt bỏ trên, bỏ dưới, bỏ tả, bỏ hữu”. Nếu thế, ta giải thích ra sao từ “bìa/ bỏ bìa”? Giấy quyến là dùng để rọc ra nhiều dun vấn thuốc để hút, nhiều tờ xếp lại gọi là thếp/ thếp giấy, chứ nào có ai đóng lại và bên ngoài còn có cho cái bìa? Chính bà Ba Thời cũng nói: “Giấy quyến đâu có bìa”.
Vậy, “bìa” trong ngữ cảnh này là gì?
Chính là “lề”.
Khi viết chữ lên trang giấy phải chừa lề, còn hút thuốc thì không cần bỏ lề, “Vậy mà có những kẻ ăn giấy, bày đặt bỏ trên, bỏ dưới, bỏ tả, bỏ hữu”. Đáng trách là vậy. Khi nói “bìa” chính là “lề” hoàn toàn không suy đoán mà “nói có sách, mách có chứng”: “Bìa: lề, chéo, lớp ngoài - theo “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895).
Tuy nhiên, do “lề” còn là từ đồng âm - như ta đã biết chính là lề thói, lề luật, luật phép, thói tục, cách thức đã quen như tục ngữ có câu “Đất lề quê thói”. Thế thì, “giấy” ở đây không chỉ nói về giấy dùng vấn thuốc hút mà trong ngữ cảnh này, chính là nhằm chỉ theo nghĩa của các từ mà “Đại Nam quấc âm tự vị” (1895) ghi nhận như “trình giấy”: trình giấy phép, trình giấy tờ; “coi giấy”: coi xét giấy tờ; “có giấy”: có giấy tờ làm chứng, có phép; “đứng giấy”: thủ ký, điềm chỉ vào giấy v.v… “Trách ai ăn giấy bỏ bìa”, còn được hiểu là trách ai đó đã làm việc gì đó đã ngang nhiên bỏ qua “lề” theo nghĩa vừa nêu. Ấy là nói trong vấn đề liên quan về pháp lý, văn bản giấy tờ đã không thực hiện đúng theo lề, theo khuôn phép.
Thế nhưng tại sao từ việc này (cũng như việc “bỏ lề/ bỏ bìa” trong việc vấn thuốc lá) lại dẫn đến “Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa” là nói đến tình cảm lứa đôi? Sở dĩ như thế, vì “giấy” với người miền Nam còn được sử dụng ám chỉ người con gái. Tùy vùng miền, nếu đã có hàng loạt câu so sánh đã thể hiện trong ca dao như thân em như thể cánh bèo, như cỏ ngoài đồng, như miếng cau khô, như giếng giữa đàng, như tấm lụa đào, như chẽn lúa đòng đòng… thì trong Nam còn có câu so sánh khác. Câu này được tìm thấy trong “Câu hát góp” (Recueil de chansons populaires) in năm 1901 của Huỳnh Tịnh Paulus Của:
Thân em như giấy nửa tờ
Chớ nghi mà tội chớ ngờ mà oan
Do câu trên đã có từ giấy - “Trách ai ăn giấy bỏ bìa” là trách ai đó đã làm một việc vô phép tắc, bỏ lề thói/ thói tục nên người ta lợi dụng sự đồng âm để “bắt cầu” qua giấy nhằm chỉ người con gái để dẫn đến tình huống: “Khi thương, thương vội, khi lìa, lìa xa”. Sự liên tưởng này hoàn toàn hợp lý bởi cả hai trường hợp cũng đều đáng trách như nhau, chẳng khác gì:
Trách ai vặn khóa bẻ chìa
Đôi ta mới ngộ lại lìa xa nhau.
Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/so-tay/trach-ai-an-giay-bo-bia-i771218/