Trận so găng kinh thiên động địa trên biển giữa Trung Quốc và Nhật Bản
Năm 1894 đã diễn ra cuộc chiến giữa hạm đội Bắc Dương của Trung Quốc với hạm đội Nhật Bản. Hạm đội Bắc Dương khi đó được coi là 'mạnh nhất châu Á' và 'mạnh thứ 8 trên thế giới'.
Nhưng kết quả, hạm đội Trung Quốc đã bị đánh đến mức không “ngóc đầu” lên được nữa.
Cuộc chạy đua song mã
Hạm đội Bắc Dương thành lập năm 1861. Đến năm 1871, 4 chiến thuyền từ các tỉnh phía Nam được tăng cường lên phía Bắc. Tuy nhiên, Bắc Dương vẫn bị xem là yếu nhất so với ba đoàn thủy quân khác của triều Mãn Thanh. Sau đó đại thần nhà Thanh là Lý Hồng Chương đã phân bổ phần lớn quỹ hải quân cho Bắc Dương. Hạm đội Bắc Dương được Lý Hồng Chương thí điểm xây dựng với chủ yếu là các thiết giáp hạm nhập khẩu từ Đức và Anh.
Năm 1881, Lý Hồng Chương đã đặt mua 2 thiết giáp hạm khổng lồ của Đức và đặt tên là “Định Viễn” và “Trấn Viễn”. Hai tàu này có lượng giãn nước hơn 7.300 tấn, lớn hơn rất nhiều so với các chiến hạm lớn nhất của Nhật thời đó. Ngoài ra, Lý Hồng Chương cũng đề xuất với vua Thanh để mua rất nhiều chiến hạm hàng nghìn tấn khác, biến hạm đội Bắc Dương thành lực lượng hải quân “lớn thứ 8 trên thế giới” và được xem là “mạnh nhất châu Á”.
Việc mua sắm vũ khí dừng lại vào năm 1891, khi ngân sách được chuyển sang xây dựng Di Hòa Viên ở Bắc Kinh theo yêu cầu của Từ Hy Thái hậu. Hậu cần cho hạm đội cũng gặp khó khăn lớn do việc xây dựng tuyến đường sắt Mãn Châu đã bị đình lại. Sĩ khí của hải quân Mãn Thanh nói chung rất thấp vì thiếu lương thực và tiền lương so với các lực lượng khác như bộ binh, kỵ binh.
Trong lúc đó, những cải cách dưới thời Thiên hoàng Minh Trị đã cho phép Nhật Bản có lực lượng quân đội thực sự hiện đại, góp phần không nhỏ trong “mộng ước” trở thành đế quốc của Nhật Bản. Đặc biệt, hải quân Nhật Bản đã được xây dựng theo hình mẫu của Anh, khi ấy là cường quốc hải quân hàng đầu thế giới. Các cố vấn người Anh được mời đến Nhật Bản để huấn luyện, cố vấn và giáo dục về tổ chức hải quân.
Đồng thời, các sinh viên Nhật được gửi đến Anh để học và nghiên cứu hải quân Hoàng gia Anh. Qua tập luyện và giảng dạy với các hướng dẫn viên của Anh, Nhật Bản đã xây dựng được một lực lượng hải quân rất thành thạo trong việc bắn đại bác và điều khiển tàu. Tuy nhiên, Nhật Bản cũng không đủ nguồn lực để có một chủ lực hạm, và vì vậy phải lên kế hoạch triển khai học thuyết “Jeune Ecole” (hạm đội nhỏ) với các tàu chiến nhỏ, chạy nhanh, đặc biệt là tuần dương hạm và tàu phóng lôi, chống lại các tàu chiến lớn.
Màn thua khó tưởng tượng
Để lấy lại uy danh của “thiên triều”, Trung Quốc cũng đã thị uy, có nhiều hành động thách thức Nhật Bản và quyền lợi của Nhật Bản trên bán đảo Triều Tiên. Mâu thuẫn của Trung Quốc và Nhật Bản lên đến đỉnh điểm vào tháng 6/1894, khi quân Mãn Thanh tràn vào Triều Tiên và Nhật Bản cũng đã đưa quân vào đất nước này tranh giành quyền lợi.
Tuy nhiên, quân Mãn Thanh nhanh chóng thất bại và bị tiêu diệt. Trên đà thắng lợi, Nhật Bản toan tính mở rộng chiến tranh sang cả lãnh thổ Trung Quốc, trước hết là bằng đường biển. Đầu tiên, tại trận Phong Đảo diễn ra vào ngày 25/7/1894 trong vịnh Asan của Triều Tiên, hai tàu của hạm đội Bắc Dương là Tế Viễn và tàu phóng ngư lôi Quảng Ất đã bị pháo kích bởi ba tuần dương hạm Nhật Bản là Akitsushima, Naniwa và Yoshino.
Cùng lúc đó, tàu Thao Giang và tàu vận tải Cao Thăng thuộc hạm đội Bắc Dương chở 1.200 lính Trung Quốc và hàng tiếp tế không may xuất hiện đúng vào trận đánh. Kết quả, tàu Tế Viễn chạy trốn, tàu phóng ngư lôi Quảng Ất, tàu vận tải Cao Thăng bị bắn chìm, tàu Thao Giang bị bắt giữ. Thương vong của Trung Quốc khoảng 1.100 quân, Nhật không mất người nào.
Sau chiến thắng này, Nhật Bản thành lập một hạm động mạnh gồm 12 tàu chiến các loại gồm kỳ hạm là tàu tuần dương Matsushima được áp tải bởi 2 chiến hạm cỡ nhỏ Sei-kyo và pháo hạm Akagi đi phía sau; các tuần dương hạm Chiyoda, Hashidate, Itsukushima, Fuso, Hiei đi giữa; hải đội xung kích có tốc độ cao, bao gồm tuần dương hạm Yoshino, Akitsushima, Takachiho và Naniwa đi đầu. Hạm đội Nhật Bản được lệnh nhanh chóng tiến vào biển Hoàng Hải, đánh chiếm các pháo đài, bến cảng, tạo điều kiện để lục quân di chuyển sâu vào nội địa Trung Quốc.
Lý Hồng Chương tức tốc truyền lệnh cho Đề đốc Đinh Nhữ Xương dưới quyền điều động mười chiến thuyền các loại đến chi viện. Đinh Nhữ Xương đã chia hạm đội theo thế trận “nhạn bay hai cánh đơn hành” với 2 hải đội. Trong đó hải đội thứ nhất tập trung chủ yếu những tàu xương sống của hạm đội Bắc Dương, gồm 2 thiết giáp hạm Định Viễn và Trấn Viễn nằm ở trung tâm đội hình chiến đấu. Tuy nhiên, hạm đội Nhật Bản đã tiến nhanh vào cửa sông Áp Lục giáp biển Hoàng Hải vào ngày 17/9/1894. Đội hình phía Nhật Bản như một chữ U lớn, hướng về phía hạm đội Bắc Dương.
Do áp dụng đội hình dòng phía sau, các thiết giáp hạm Định Viễn và Trấn Viễn rất khó bắn trúng các tàu chiến Nhật Bản, vì có những tàu nhỏ hơn chắn giữa họ với đối phương. Trong khi đó, từ cánh phải, hải đội xung kích của Nhật Bản khai hỏa, bắn các tàu chiến nhỏ hơn của địch thủ. Mục tiêu đầu tiên là 2 tuần dương hạm loại nhỏ Dương Uy và Siêu Dũng. Cả hai chiếc đều bốc cháy dữ dội ngay sau loạt đạn đầu. Bị lâm vào mê hồn trận, chiến thuyền Trung Quốc chẳng bao lâu đã bị chia năm xẻ bảy, đầu đuôi không cứu nhau được.
Trận chiến kéo dài suốt cả ngày 17/9/1894, và kết thúc với phần thắng thuộc về người Nhật Bản. Hạm đội Bắc Dương bị bắn chìm 5 tàu, làm hỏng 3 tàu, 850 thủy thủ thiệt mạng, 500 người bị thương, những chiến thuyền còn lại bỏ chạy về phía căn cứ hải quân Uy Hải Vệ. Trong khi đó, hạm đội Nhật Bản chỉ bị hỏng 4 tàu, 190 thủy thủ thiệt mạng, 200 người bị thương.
Tan tành xác pháo
Sau chiến thắng ở Hoàng Hải, Thiên hoàng Minh Trị đã hạ lệnh chia quân tiến đánh Lữ Thuận và cửa Uy Hải của Trung Quốc để bao vây và tiêu diệt tàn quân của hạm đội Bắc Dương. Lúc này, Bắc Dương vẫn còn có 15 tàu chiến tại căn cứ hải quân Uy Hải Vệ và 13 thuyền phóng lôi.
Khi đoàn hải quân lục chiến đổ bộ được lên bờ biển Trung Quốc, binh sĩ Nhật ào ạt xông vào công phá các pháo đài. Chiếm được các pháo đài, đoàn quân Nhật Bản nã trái pháo vào hạm đội Trung Quốc. Hạm đội Nhật Bản gồm 25 tàu chiến và 16 thuyền phóng lôi, với lợi thế áp đảo cũng tấn công hạm đội Bắc Dương.
Lực lượng tàu phóng lôi của Nhật Bản đã đánh chìm kỳ hạm Định Viễn cùng 3 tàu lớn khác của hạm đội Bắc Dương. 13 tàu phóng lôi cố chạy đến Yên Đài thì 6 chiếc bị tiêu diệt và 7 chiếc bị bắt giữ. Sau 22 ngày (20/1 – 12/2/1895), toàn bộ hạm đội Bắc Dương đã “tan tành như xác pháo” trước hạm đội Nhật Bản.
Ngày 12/2/1895, Đinh Nhữ Xương và các tàu còn lại đã đầu hàng hải quân Nhật Bản. Thiết giáp hạm Trấn Viễn bị Nhật Bản thu về sử dụng. Hạm đội Bắc Dương sau đó tuy được phục hồi nhưng đã không lấy lại được vị thế như trước đây.