Trao quyền rõ hơn cho cộng đồng trong quản lý tài nguyên

Trong lĩnh vực nông nghiệp và môi trường, sự tham gia trực tiếp của người dân đã góp phần quan trọng vào việc vừa duy trì sinh kế vừa bảo tồn và khôi phục các giá trị tài nguyên. Để cộng đồng thực sự trở thành trung tâm của phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, cần củng cố khung pháp lý để cộng đồng được trao quyền rõ ràng hơn trong quản lý tài nguyên.

Nhiều kết quả tích cực

Phát huy vai trò của cộng đồng trong phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường là định hướng, chủ trương được Đảng, Nhà nước quan tâm từ nhiều năm qua. Nhiều chính sách đã được ban hành, như giao đất, giao rừng giúp người dân địa phương có quyền sở hữu và sử dụng tài nguyên thiên nhiên rõ ràng hơn. Đáng chú ý, chính sách chi trả dịch vụ môi trường rừng (PFES) được ban hành từ 2010 đã tạo cơ chế khuyến khích kinh tế bền vững, bằng cách chuyển hàng nghìn tỷ đồng mỗi năm từ các doanh nghiệp thủy điện, đơn vị cấp nước sạch, cơ sở du lịch sinh thái đến cộng đồng địa phương để chi trả cho công tác bảo vệ môi trường…

Người dân trồng rừng nhận tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng. Ảnh: TL

Người dân trồng rừng nhận tiền chi trả dịch vụ môi trường rừng. Ảnh: TL

Theo Quỹ Bảo vệ và phát triển rừng Việt Nam, tính đến hết năm 2024, lũy kế toàn quốc đã ký được hơn 1.800 hợp đồng ủy thác chi trả dịch vụ môi trường rừng, với sự tham gia ngày càng chủ động và có trách nhiệm của các đơn vị sử dụng dịch vụ. Tổng thu tiền dịch vụ môi trường rừng trong năm 2024 đạt hơn 3.760 tỷ đồng, trong đó thu từ các nhà máy thủy điện chiếm tỷ trọng lớn nhất, đạt trên 84%. Nguồn kinh phí dịch vụ môi trường rừng đã được sử dụng hiệu quả trong việc hỗ trợ công tác quản lý, bảo vệ khoảng 7,45 triệu héc ta rừng, chiếm 53,53% diện tích rừng toàn quốc, với gần 250.000 chủ rừng là cá nhân, hộ gia đình, cộng đồng, thôn bản được hưởng lợi từ nguồn tiền này. Tỷ lệ che phủ rừng đã tăng từ 27% năm 1990 lên 42% hiện nay.

Trong lĩnh vực nông nghiệp, Chương trình Mỗi xã một sản phẩm (OCOP) cùng hàng trăm hợp tác xã (HTX) sản xuất hữu cơ được hình thành, tạo ra chuỗi giá trị mới, nâng cao thu nhập cho người dân, thúc đẩy kinh tế xanh và hình thành các mô hình sản xuất tuần hoàn. Theo Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến tháng 9/2025, cả nước có gần 17.400 sản phẩm của hơn 9.300 chủ thể OCOP đạt từ 3 sao trở lên, tăng hơn 8.400 sản phẩm so với năm 2022, vượt chỉ tiêu được giao. Hay trong lĩnh vực thủy sản, chương trình đồng quản lý nghề cá, đồng quản lý thủy sản đã giúp nguồn lợi thủy sản dần khôi phục, giảm thiểu xung đột ngư trường…

Theo đánh giá của Chương trình Phát triển Liên Hợp Quốc (UNDP), phát triển dựa trên cộng đồng không chỉ dừng ở việc duy trì sinh kế tại chỗ, mà còn mở ra cơ hội kết nối rộng lớn hơn với thị trường và doanh nghiệp. Tính đến 2025, cả nước có hơn 800 HTX nông nghiệp, trong đó gần 300 HTX được thành lập mới trong 5 năm trở lại đây, với nhiều mô hình hoạt động hiệu quả và doanh thu bình quân trên 5 tỷ đồng/năm. Trong đó, nhiều HTX nông nghiệp hữu cơ, nhóm nuôi tôm sinh thái hay tổ sản xuất thủ công mỹ nghệ đã trở thành đối tác tin cậy cho các chuỗi siêu thị, doanh nghiệp xuất khẩu hoặc các nền tảng thương mại điện tử…

Mặc dù đã đạt được những tiến bộ đáng kể song vẫn còn nhiều thách thức trong phát huy vai trò cộng đồng để phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường. UNDP cho rằng, khung chính sách hiện nay vẫn còn phân tán và thiếu sự liên kết, trong khi nhiều mô hình thí điểm thành công gặp khó trong việc duy trì hoạt động sau khi nguồn tài trợ từ bên ngoài kết thúc. Cơ chế khuyến khích kinh tế, như PFES vẫn chưa đủ mạnh để thúc đẩy sự thay đổi hành vi lâu dài trong cộng đồng. Tại vùng sâu, vùng xa, khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, thiếu vốn, năng lực kỹ thuật hạn chế cùng với tác động ngày càng nghiêm trọng của biến đổi khí hậu vẫn tiếp tục đe dọa sinh kế của người dân.

Quyền lợi kinh tế phải gắn với kết quả bảo vệ môi trường

Theo các chuyên gia, trong bối cảnh biến đổi khí hậu, suy thoái tài nguyên và áp lực đô thị hóa, cộng đồng tiếp tục khẳng định vị thế trung tâm trong tiến trình phát triển bền vững. Họ không chỉ là đối tượng thụ hưởng chính sách, mà còn là tác nhân trực tiếp trong việc bảo vệ rừng, trồng rừng ngập mặn, quản lý nghề cá, phân loại rác thải, phát triển nông nghiệp sinh thái và kinh tế tuần hoàn. Phát huy vai trò của cộng đồng là con đường tất yếu để gắn kết phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường, đồng thời đáp ứng các cam kết quốc tế của Việt Nam về khí hậu và phát triển bền vững.

Để cộng đồng thực sự trở thành trung tâm của phát triển kinh tế gắn với bảo vệ môi trường, UNDP khuyến nghị, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện chính sách và tạo thêm động lực bền vững cho người dân. Trước tiên, cần củng cố khung pháp lý để cộng đồng được trao quyền rõ ràng hơn trong quản lý tài nguyên. Quyền lợi kinh tế của người dân phải gắn trực tiếp với kết quả bảo vệ môi trường, thông qua cơ chế chi trả dịch vụ hệ sinh thái, tín chỉ carbon, tín dụng xanh hoặc các mô hình đồng quản lý bảo vệ tài nguyên, nguồn lợi thủy sản, hợp tác công tư với doanh nghiệp tư nhân. Khi cộng đồng được trao quyền và hưởng lợi trực tiếp, họ sẽ có động lực mạnh mẽ để bảo vệ tài nguyên.

Cùng với đó, cần tăng cường hỗ trợ về tài chính và kỹ thuật để cộng đồng có khả năng duy trì mô hình sau khi các dự án quốc tế kết thúc. Các quỹ môi trường địa phương, các gói tín dụng vi mô và cơ chế bảo lãnh tín dụng có thể giúp hộ gia đình, HTX và nhóm cộng đồng đầu tư vào sản xuất xanh, tuần hoàn. Một yếu tố quan trọng nữa là cần nâng cao năng lực cộng đồng - không chỉ dừng ở tập huấn kỹ thuật canh tác hay xử lý rác, mà còn mở rộng sang kỹ năng quản lý, tiếp thị sản phẩm, thương mại điện tử và ứng dụng chuyển đổi xanh, chuyển đổi số. Công tác truyền thông và giáo dục cần được coi là đòn bẩy để thay đổi thói quen xã hội. Việc tôn vinh, nhân rộng các mô hình cộng đồng tiêu biểu sẽ tạo ra hiệu ứng lan tỏa.

Người dân Nghệ An chăm sóc bảo vệ rừng Pơ mu, Sa mu quý hiếm rộng gần 100ha. Ảnh: Văn Tý

Người dân Nghệ An chăm sóc bảo vệ rừng Pơ mu, Sa mu quý hiếm rộng gần 100ha. Ảnh: Văn Tý

Ngoài ra, Việt Nam cũng nên đẩy mạnh hợp tác quốc tế và khu vực để học hỏi kinh nghiệm quản lý tài nguyên dựa vào cộng đồng, đồng thời tiếp cận thêm nguồn tài chính khí hậu, công nghệ sạch và thị trường tiêu thụ sản phẩm xanh. “Khi Chính phủ kiến tạo chính sách, cộng đồng tích cực hành động, và các tổ chức như UNDP tiếp tục đồng hành, thì sự gắn kết ba bên này sẽ tạo nên nền tảng vững chắc giúp Việt Nam xây dựng một nền kinh tế xanh, tuần hoàn và thích ứng với biến đổi khí hậu”, UNDP nhìn nhận.

Minh Châu

Nguồn Đại Biểu Nhân Dân: https://daibieunhandan.vn/trao-quyen-ro-hon-cho-cong-dong-trong-quan-ly-tai-nguyen-10397421.html