Trình Quốc hội chương trình hơn 580.000 tỷ đồng hiện đại hóa giáo dục giai đoạn 2026-2035

Chính phủ trình Quốc hội chương trình hơn 580.000 tỷ đồng nhằm chuẩn hóa, hiện đại hóa toàn diện hệ thống giáo dục đào tạo, tạo bước chuyển căn bản, mạnh mẽ về chất lượng giáo dục đào tạo trong 10 năm tới.

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn trình bày Tờ trình về Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035. Ảnh: báo Đại biểu nhân dân

Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn trình bày Tờ trình về Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035. Ảnh: báo Đại biểu nhân dân

Sáng 25/11, tiếp tục chương trình kỳ họp thứ 10, Quốc hội Khóa XV, Quốc hội làm việc tại Hội trường, nghe Tờ trình và Báo cáo thẩm tra về Chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035.

Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo 10 năm tới chia làm 2 giai đoạn

Thừa ủy quyền Thủ tướng, Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn trình Quốc hội chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia hiện đại hóa, nâng cao chất lượng giáo dục và đào tạo giai đoạn 2026-2035.

Theo Bộ trưởng Giáo dục và Đào tạo Nguyễn Kim Sơn, đây là bước thể chế hóa các chủ trương lớn của Đảng, đặc biệt là Nghị quyết 71-NQ/TW về xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia mới cho giáo dục nhằm tạo nền tảng lâu dài cho phát triển nhân lực chất lượng cao.

Đối tượng thụ hưởng của Chương trình là các cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học công lập (không bao gồm các trường: Hữu nghị T78, T80, Phổ thông vùng cao Việt Bắc, trường Dự bị đại học và trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú được đầu tư trong Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội khu vực miền núi và dân tộc thiểu số). Trẻ em, học sinh, sinh viên, người học, nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục trong các cơ sở giáo dục; các tổ chức, cá nhân có liên quan thuộc các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục.

Thời gian thực hiện Chương trình là 10 năm (2026-2035), chia làm 2 giai đoạn.

Giai đoạn 2026-2030: tập trung giải quyết các vấn đề hạn chế, thách thức đặt ra trong thời gian qua; thực hiện và hoàn thành toàn bộ hoặc hoàn thành một phần một số mục tiêu chủ yếu cần hỗ trợ từ ngân sách nhà nước được đề ra đến năm 2030 tại Nghị quyết số 71-NQ/TW và các quy định có liên quan.

Giai đoạn 2031-2035: tiếp tục xây dựng và triển khai các nhiệm vụ, mục tiêu đặt ra đến 2035.

Mục tiêu tổng quát của chương trình là chuẩn hóa, hiện đại hóa toàn diện hệ thống giáo dục đào tạo, tạo bước chuyển căn bản, mạnh mẽ về chất lượng giáo dục đào tạo. Mở rộng cơ hội học tập cho mọi người dân, bảo đảm công bằng trong tiếp cận giáo dục, quyền được học tập suốt đời; đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao, cho sự nghiệp phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số.

Cụ thể, đến năm 2030, chương trình đặt mục tiêu chuẩn hóa hệ thống mầm non, phổ thông và kiên cố hóa 100% trường lớp; hoàn thành mạng lưới trường nội trú - nhà công vụ ở vùng khó khăn; tối thiểu 30% trường phổ thông có đủ thiết bị dạy học STEM/STEAM bằng tiếng Anh. Giáo dục nghề nghiệp phấn đấu hình thành 18 trường chất lượng cao; giáo dục đại học hướng tới tối thiểu 8 cơ sở vào nhóm 200 đại học hàng đầu châu Á và ít nhất một trường vào top 100 thế giới ở một số lĩnh vực.

Cùng với đó, 95% nhà giáo và 70% học sinh được bồi dưỡng năng lực số; tối thiểu 30% cơ sở giáo dục ứng dụng hiệu quả công nghệ số và AI trong quản lý, dạy học và đổi mới sáng tạo. Tiếng Anh từng bước trở thành ngôn ngữ thứ hai với 30% trường phổ thông có giáo viên đủ năng lực dạy các môn khoa học bằng tiếng Anh; 100% trường đại học sư phạm trọng điểm đủ năng lực đào tạo đội ngũ này.

Đến năm 2035, toàn bộ cơ sở giáo dục mầm non và phổ thông phải đạt chuẩn cơ sở vật chất và đủ thiết bị để triển khai dạy tiếng Anh như ngôn ngữ thứ hai. Mạng lưới giáo dục nghề nghiệp phấn đấu có 60 trường cao đẳng chất lượng cao tiếp cận chuẩn ASEAN-4 và 6 trường đạt trình độ nhóm G20. Tất cả cơ sở đại học công lập trong quy hoạch đạt chuẩn hạ tầng và hình thành hệ thống trung tâm đổi mới sáng tạo tại các trường trọng điểm.

Tổng các nguồn lực huy động để thực hiện Chương trình giáo dục giai đoạn 2026-2035 khoảng 580.133 tỷ đồng

Ủy ban Văn hóa và Xã hội tán thành sự cần thiết của chương trình nhưng lưu ý Chính phủ phải rà soát để tránh chồng chéo với các chương trình mục tiêu quốc gia khác; làm rõ căn cứ xác định tỷ lệ vốn đối ứng của địa phương và của các cơ sở đại học, dạy nghề vì mức đề xuất hiện còn cao.

Về mục tiêu cụ thể, Ủy ban đề nghị, cần nghiên cứu, tính toán kỹ lưỡng điều kiện bảo đảm tính khả thi để cân nhắc các chỉ tiêu 30% (đến năm 2030) và 100% (đến năm 2035) số cơ sở giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông thực hiện đưa tiếng Anh trở thành ngôn ngữ thứ hai trong trường học (bao gồm cơ sở vật chất, nguồn cung cấp đội ngũ giáo viên giảng dạy các môn học bằng tiếng Anh).

Mục tiêu về cơ sở vật chất ở bậc giáo dục mầm non, giáo dục phổ thông nên xác định theo tiêu chí đủ phòng học kiên cố hóa, đạt chuẩn theo quy định của Bộ Giáo dục và Đào tạo; trang bị đầy đủ thiết bị dạy học tối thiểu.

Đối với mục tiêu về người học, người dạy, cần có chỉ tiêu về số lượng người được cử đi đào tạo tại các cơ sở giáo dục đại học uy tín, chất lượng ở nước ngoài bằng ngân sách nhà nước.

Quốc hội sẽ thảo luận nội dung này tại tổ trong sáng 25/11, sau đó thảo luận tại hội trường ngày 2/12 và xem xét thông qua ngày 11/12.

Hồng Phong

Nguồn Công dân & Khuyến học: https://congdankhuyenhoc.vn/trinh-quoc-hoi-chuong-trinh-hon-580000-ty-dong-hien-dai-hoa-giao-duc-giai-doan-2026-2035-179251125110252872.htm