Trồng nấm dưới tán rừng - đánh thức tài nguyên, mở lối thoát nghèo
Mô hình trồng nấm dưới tán rừng không chỉ tận dụng độ che phủ tự nhiên để tạo ra dược liệu quý, mà còn biến những cánh rừng già trở thành 'kho báu' giúp đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi thoát nghèo bền vững.
Câu chuyện bắt đầu từ năm 2021, khi chính quyền địa phương triển khai chính sách giao khoán bảo vệ rừng, bà Mai Thị Thái, ở xã Tuy Đức, tỉnh Lâm Đồng, trăn trở tìm cách thoát nghèo từ diện tích 3,5ha rừng tự nhiên được giao khoán bảo vệ. Nhìn những cánh rừng xanh mướt, bà Thái tự hỏi liệu có thể phát triển kinh tế dưới tán rừng mà không tác động đến rừng?

Giờ đây, mô hình trồng nấm linh chi dưới tán rừng được giao khoán bảo vệ của gia đình bà Mai Thị Thái mang lại thu nhập lên tới hàng trăm triệu đồng mỗi vụ. Ảnh: Hồng Thủy
Câu trả lời nằm ở những cây nấm linh chi đang len lỏi trong những trảng cỏ dưới tán rừng. Sau thời gian học hỏi kinh nghiệm, bà Thái quyết định trồng thử phôi giống nấm linh chi, để rồi nhận ra hiệu quả đặc biệt của mô hình này. Bà cho biết, trồng nấm linh chi không khó, cứ nương theo đất để cải tạo, trồng phôi nấm với mật độ khoảng 16 phôi/m2. Trung bình sau 4 - 5 tháng, 1m2 đất ấy sẽ cho thu hoạch gần 1,5kg nấm tươi, thành phẩm nấm sấy khô giảm đi khoảng một nửa. Theo giá thị trường, mỗi kg nấm khô được bán với mức giá dao động 1.000.000 - 1.500.000 đồng/kg, mang lại thu nhập ngoài mong đợi.
Đặc biệt, nấm linh chi trồng dưới tán rừng còn có ưu việt hơn bởi dễ chăm sóc. Sau khi xuống giống, người trồng chỉ cần kiểm tra độ ẩm của đất, không cần bón phân. Riêng đến mùa khô cần chú ý tưới nước phù hợp để giữ ẩm, giúp cân bằng lượng nước cho nấm phát triển. Phôi nấm giống chỉ trồng một lần nhưng cho thu hoạch cả năm.
Cách thu hoạch cũng đơn giản, chỉ cần cắt một đường mạnh vào cuống sát với mũ nấm rồi bẻ nhẹ là gãy. Tại vết cắt ấy chỉ sau khoảng vài ngày sẽ mọc ra nấm con, lại tiếp tục chăm sóc và lần lượt thu hoạch cách nhau 3 - 5 tháng. Ước tính, nếu quá trình trồng nấm thuận lợi, cứ 1.000m2 nấm linh chi trồng dưới tán rừng, mỗi năm sau khi trừ chi phí có thể mang lại thu nhập đến vài trăm triệu đồng.
Không riêng gia đình bà Mai Thị Thái, nhiều hộ gia đình bà con dân tộc thiểu số ở vùng cao Tây Bắc, Tây Nguyên đã mạnh dạn trồng những “vườn nấm” dưới tán rừng, góp phần cải thiện sinh kế, nâng cao chất lượng cuộc sống. Đặc biệt tại một số tỉnh như Lai Châu, Sơn La, Quảng Trị, Lâm Đồng, Đắk Lắk…, mô hình này ngày càng chứng minh tính ưu việt. Nhiều hợp tác xã cũng đã hình thành từ đây, nhằm liên kết bà con cùng học hỏi kỹ thuật trồng, chăm sóc cây nấm cũng như tạo đầu ra cho sản phẩm…

Cây nấm linh chi sinh trưởng dưới tán rừng cho hàm lượng các hoạt chất quý cao hơn so với nấm trồng quy mô công nghiệp nên được thị trường rất ưa chuộng. Ảnh: Quang Yên
Số liệu từ các địa phương cho thấy, 1ha nấm linh chi trồng dưới tán rừng có thể cho thu nhập gấp hàng chục lần so với trồng ngô hay lúa nương. Qua đó, mang lại cuộc sống no đủ cho hàng nghìn hộ dân.
Theo các chuyên gia, khác với trồng nấm trong nhà lạnh đòi hỏi đầu tư hạ tầng tốn kém và tiêu tốn điện năng, việc trồng nấm dược liệu dưới tán rừng tận dụng chính hệ sinh thái tự nhiên. Tán rừng cung cấp độ ẩm lý tưởng, nhiệt độ ổn định và lượng ánh sáng tán xạ vừa đủ những điều kiện tiên quyết cho sự phát triển của nấm dược liệu.
Kết quả nghiên cứu của Viện Dược liệu chỉ ra rằng, nấm linh chi được trồng bán tự nhiên dưới tán rừng thường có hàm lượng các hoạt chất quý cao hơn so với nấm trồng quy mô công nghiệp trong môi trường nhân tạo hoàn toàn. Nguyên nhân là do nấm phải chống chọi với điều kiện tự nhiên như biên độ nhiệt ngày đêm, sương muối..., khiến cây nấm tích tụ dược chất tốt hơn để sinh tồn. Hình thái nấm cũng đẹp, rắn chắc, tai nấm dày, đáp ứng được thị hiếu của những khách hàng khó tính tin dùng dược liệu sạch.
Ngoài việc mang lại nguồn dược liệu quý, giá trị kinh tế cao, sau khi khai thác nấm, rễ cây tự hoại trong đất trở thành nguồn phân bón dinh dưỡng hữu cơ cực kỳ tốt, góp phần bảo vệ đất, nước và môi trường. Với những giá trị đó, mô hình trồng nấm dược liệu dưới tán rừng đang đóng góp quan trọng làm thay đổi diện mạo vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Qua đó, mang lại lợi ích “kép”, vừa nâng cao hiệu quả bảo vệ, phát triển rừng, vừa cải thiện thu nhập, phát triển đời sống, giúp bà con hiện thực hóa giấc mơ làm giàu nơi vùng đất khó.











