Trung Quốc - Mỹ: Hai con đường đối lập về năng lượng
Trong khi Tổng thống Donald Trump kiên định với nhiên liệu hóa thạch thì Chủ tịch Tập Cận Bình đã và đang biến Trung Quốc thành cường quốc hàng đầu thế giới về năng lượng sạch.

Tổng thống Donald Trump và Chủ tịch Tập Cận Bình trước cuộc gặp tại Busan, Hàn Quốc ngày 30/10. (Ảnh: ABC)
Mỹ và Trung Quốc đang đi theo hai hướng hoàn toàn khác nhau trong lĩnh vực năng lượng, và sự đối lập đó thể hiện rõ khi hai nhà lãnh đạo của hai nền kinh tế lớn nhất thế giới - một bên dẫn đầu về khí đốt, bên kia thống trị năng lượng tái tạo - gặp nhau.
Kể từ khi trở lại Nhà Trắng, ông Trump đã đặt cược lớn vào nhiên liệu hóa thạch, trở thành “người bán hàng trưởng” cho ngành dầu khí Mỹ. Ông liên tục gây sức ép để các đồng minh và đối tác thương mại tăng mua dầu khí từ Mỹ. Cách tiếp cận này đối lập hẳn với chiến lược của ông Tập Cận Bình, người đã thúc đẩy Trung Quốc trở thành siêu cường năng lượng sạch, liên tục mở rộng công suất điện tái tạo và tràn ngập thị trường toàn cầu bằng tấm pin mặt trời, pin lưu trữ và xe điện.
Hai con đường này đang ngày càng mâu thuẫn, đặc biệt là ở châu Á - khu vực có nhu cầu năng lượng dự báo sẽ tăng vọt khi các nền kinh tế tiếp tục phát triển trong những năm tới.
“Mỹ và Trung Quốc đang cạnh tranh để bán hai mô hình năng lượng đối nghịch: Mỹ dựa vào nhiên liệu hóa thạch, còn Trung Quốc dựa vào năng lượng tái tạo giá rẻ”, ông Gregory Brew, nhà phân tích năng lượng của Eurasia Group, nhận định. “Hiện vẫn chưa thể nói bên nào sẽ chiếm ưu thế”, ông bổ sung.
Mối quan hệ vốn căng thẳng giữa hai nước đã trở nên lạnh giá hơn trong nhiệm kỳ hai của ông Trump. Đầu năm nay, Tổng thống Mỹ áp thuế diện rộng lên hàng hóa Trung Quốc, và Bắc Kinh đáp trả bằng lệnh cấm xuất khẩu khoáng sản chiến lược sang Mỹ, đồng thời ngừng nhập khẩu đậu tương và khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) của Mỹ.
Cuộc gặp giữa ông Trump và ông Tập tại Hàn Quốc vào cuối tháng 10, bên lề Hội nghị thượng đỉnh Hợp tác Kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC), là lần gặp trực tiếp đầu tiên giữa hai nhà lãnh đạo kể từ nhiệm kỳ đầu của ông Trump.
Năng lượng là một trong những vấn đề then chốt của cả hai nước, khi Mỹ và Trung Quốc đều đang tìm cách mở rộng thị trường xuất khẩu tại châu Á. Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), nhu cầu điện ở Đông Nam Á dự báo sẽ tăng gấp đôi vào năm 2050, trong khi toàn châu Á được dự báo sẽ chiếm khoảng một nửa mức tăng trưởng nhu cầu khí đốt toàn cầu vào cuối thập kỷ này.
Tuy nhiên, nhiều quốc gia trong khu vực đang rơi vào thế khó xử. “Không ai muốn chọn phe”, ông Ben Cahill, chuyên gia dầu khí tại Trung tâm Hệ thống Năng lượng và Môi trường của Đại học Texas (Austin), nhận xét.
Mỹ và Trung Quốc thu hút các nước theo những cách khác nhau. LNG của Mỹ ngày càng rẻ hơn nhờ làn sóng nguồn cung mới sắp đi vào hoạt động trong những năm tới. Trong khi đó, pin mặt trời của Trung Quốc dễ lắp đặt, giúp các quốc gia giảm phụ thuộc vào biến động giá khí đốt toàn cầu.
“Đây không phải là lựa chọn chỉ có hai hướng”, ông Cahill nói. “Khí đốt có thể hấp dẫn với những nước như Bangladesh, Pakistan, hay Thái Lan - nơi đã có sẵn hạ tầng khí đốt. Nhưng khi giá pin mặt trời tiếp tục giảm và pin lưu trữ ngày càng đáng tin cậy, năng lượng tái tạo chắc chắn sẽ trở nên hấp dẫn hơn trong tương lai”.
Nguồn cung tăng vọt
Theo Cơ quan Năng lượng Quốc tế (IEA), nguồn cung khí tự nhiên hóa lỏng (LNG) toàn cầu dự báo sẽ tăng 50% vào năm 2030, nhờ các nhà máy xuất khẩu thế hệ mới sắp đi vào hoạt động tại Mỹ và Qatar. Diễn biến này được xem là công thức cho giá khí đốt thấp hơn và nhu cầu cao hơn. IEA dự báo giá khí đốt toàn cầu trong 5 năm tới sẽ giảm 40% so với 5 năm trước, kéo theo mức tiêu thụ khí đốt tăng 9% vào năm 2030, trong đó phần lớn đến từ châu Á.
“Cách tốt nhất để mở rộng sử dụng khí đốt ở Đông Nam Á là khiến nó trở nên dồi dào và rẻ hơn”, ông Ben Cahill nhận định. “Và tôi nghĩ chúng ta đang đi đúng hướng đó”, ông nói thêm.
Tuy vậy, đà tăng trưởng của LNG vẫn có giới hạn. Dù giá khí đốt ngày càng rẻ, việc xây dựng các trạm tái khí hóa - cơ sở hạ tầng cần thiết để nhập khẩu LNG - lại vô cùng tốn kém. Ấn Độ, quốc gia tiêu thụ năng lượng lớn thứ hai ở châu Á, hiện có công suất nhập LNG còn hạn chế. Mặc dù Tổng thống Trump đã nhiều lần kêu gọi Ấn Độ đầu tư mạnh tay hơn vào LNG, nước này vẫn tỏ ra thận trọng, theo các nhà phân tích.
Trong bối cảnh đó, pin mặt trời do Trung Quốc sản xuất đang nổi lên như lựa chọn thay thế giá rẻ. Nhu cầu nhập khẩu pin mặt trời từ Trung Quốc của Ấn Độ đã tăng 52% trong nửa đầu năm 2025, thúc đẩy mạnh mẽ làn sóng phát triển năng lượng mặt trời. Dự báo đến năm 2030, công suất năng lượng tái tạo của Ấn Độ sẽ tăng gấp 3 lần, trong đó năng lượng mặt trời chiếm khoảng 60% mức tăng này.
Ngay cả những quốc gia đã có hạ tầng LNG cũng đang chuyển hướng mạnh sang điện mặt trời. Pakistan là ví dụ rõ nét. Sau khi xung đột Nga - Ukraine bùng nổ khiến giá khí đốt toàn cầu tăng vọt, nước này rơi vào khủng hoảng năng lượng, chật vật nhập đủ LNG để bù đắp sản lượng khí nội địa giảm và duy trì lưới điện.
Trước tình trạng giá điện leo thang và các đợt mất điện diện rộng, nhiều hộ gia đình Pakistan đã chuyển sang lắp điện mặt trời mái nhà. Năm 2024, nước này nhập khẩu tới 17 gigawatt tấm pin mặt trời - con số khổng lồ so với tổng công suất phát điện chỉ khoảng 40 GW.
“Pakistan là ví dụ điển hình cho xu hướng này”, ông Gregory Brew thuộc Eurasia Group nhận xét. “LNG của Mỹ đang phải cạnh tranh với điện mặt trời, điện gió, thậm chí cả điện hạt nhân - ở bất kỳ nơi nào có nhu cầu điện tăng mạnh. Và Trung Quốc gần như đã chiếm lĩnh toàn bộ thị trường pin mặt trời toàn cầu”, ông bổ sung.
Trung Quốc ngừng mua LNG của Mỹ
Tổng thống Donald Trump coi năng lượng là con bài mặc cả trong các cuộc đàm phán thương mại quy mô lớn. Một quan chức Nhà Trắng cho biết, mục tiêu của ông là đạt được các điều kiện thuận lợi hơn cho hàng xuất khẩu của Mỹ, trong đó có LNG, để đổi lấy việc mở cửa thị trường Mỹ cho doanh nghiệp nước ngoài.
“Chính quyền Trump cam kết khắc phục tình trạng thâm hụt thương mại kéo dài của nước Mỹ - điều đã làm suy yếu khai thác trong nước và gây thiệt hại cho người lao động Mỹ”, người phát ngôn Nhà Trắng Kush Desai cho biết trong một tuyên bố. “Việc các nước tăng mua năng lượng của Mỹ, bao gồm LNG, sẽ giúp thu hẹp đáng kể thâm hụt thương mại lâu năm, vốn bị khoét sâu bởi các rào cản thương mại bất công mà họ áp đặt lên hàng hóa Mỹ”, ông nói thêm.
Theo George David Banks, người từng phụ trách chính sách khí hậu quốc tế trong nhiệm kỳ đầu của ông Trump, Tổng thống hiện nhận được nhiều sự ủng hộ hơn từ các cơ quan liên bang trong việc xác định các hành vi thương mại không công bằng và mở rộng cơ hội xuất khẩu mới.
Các quan chức như Bộ trưởng Năng lượng Chris Wright tin rằng nhu cầu năng lượng cuối cùng sẽ vượt lên trên các cam kết về khí hậu, ông Banks cho biết.
Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận rằng trong nội bộ chính quyền hiện nay đang tồn tại cảm giác ngày càng rõ rệt: Chương trình nghị sự chống nhiên liệu hóa thạch và vì khí hậu quốc tế đang trở thành gánh nặng cho nước Mỹ, đồng thời đe dọa tương lai xuất khẩu năng lượng của quốc gia này.
Theo các nhà phân tích, khối lượng LNG mà Mỹ dự định xuất khẩu có thể vượt xa nhu cầu thực tế. Nhiều cam kết mua LNG trong các thỏa thuận thương mại gần đây thiếu chi tiết cụ thể, đặc biệt ở châu Âu, nơi những cam kết đó không phản ánh đúng tình hình thị trường.
Anne-Sophie Corbeau, chuyên gia về khí đốt và hydro tại Trung tâm Chính sách Năng lượng Toàn cầu thuộc Đại học Columbia, nhận định rằng nhu cầu LNG ở châu Á sẽ phải tăng gần gấp đôi trong 7 năm tới mới đủ để hấp thụ hết lượng công suất đang được ký kết hoặc xây dựng.
“Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc sẽ không thể tăng gấp đôi được”, bà nói qua email, giải thích rằng Nhật và Hàn là những thị trường đã bão hòa, dân số lại đang giảm, còn Trung Quốc thì muốn giảm phụ thuộc vào LNG nhập khẩu - đặc biệt là từ Mỹ - bằng cách mở rộng điện khí hóa dựa trên than và năng lượng tái tạo, hai nguồn mà nước này có rất dồi dào.
Chuyến công du châu Á của ông Trump đã bộc lộ rõ cả tiềm năng lẫn giới hạn của chiến lược thúc đẩy xuất khẩu LNG. Tại Tokyo, ông kỳ vọng đạt được cam kết đầu tư 550 tỷ USD từ Nhật Bản vào Mỹ, bao gồm dự án nhà máy xuất khẩu LNG trị giá 44 tỷ USD ở Alaska. Tuy nhiên, ông rời đi chỉ với lời hứa tiếp tục đàm phán mà chưa có thỏa thuận cụ thể nào. Giới phân tích đánh giá dự án này khó khả thi, vì phải xây dựng đường ống dài tới 800 dặm (hơn 1.200 km).
Theo ông Ben Cahill, Nhật Bản nhìn chung ủng hộ việc phát triển LNG của Mỹ. Các doanh nghiệp Nhật đã ký hợp đồng mua khối lượng lớn LNG từ Mỹ trong những năm gần đây, đánh giá cao tính ổn định và linh hoạt của các nhà cung cấp Mỹ. Nếu giá LNG tăng, họ còn có thể tái xuất để thu lợi.
Dù vậy, nhu cầu LNG của Nhật Bản đang giảm khi nước này dần khởi động lại các lò phản ứng hạt nhân bị dừng sau thảm họa Fukushima năm 2011.
Trung Quốc lại là một câu chuyện khác. Nước này đã ngừng mua LNG của Mỹ để đáp trả việc ông Trump áp thuế lên hàng hóa Trung Quốc hồi đầu năm nay.
“Mỹ muốn thống trị thị trường nhiên liệu hóa thạch toàn cầu, và chắc chắn họ đang dẫn đầu trong lĩnh vực LNG. Nhưng việc Trung Quốc có muốn tiếp tục phụ thuộc vào LNG - đặc biệt là LNG của Mỹ - hay không vẫn còn là điều chưa chắc chắn”, bà Corbeau nhận định. “Nếu ông Trump không thể đảo ngược tình thế với Trung Quốc”, bà nói thêm, “ông sẽ nhận ra rằng thị trường LNG toàn cầu giờ đã nhỏ hơn trước”.














