Trường Đại học Điện lực: Hoạt động nghiên cứu khoa học tăng nhanh
Ngày 12/12, Trường Đại học Điện lực tổ chức Hội nghị Sinh viên Nghiên cứu Khoa học năm 2025, tổng kết kết quả nghiên cứu khoa học của sinh viên và định hướng hoạt động thời gian tới.
Trong năm học 2024-2025, hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên Trường Đại học Điện lực ghi nhận bước phát triển rõ rệt cả về số lượng và chất lượng. Nhiều đề tài đã hình thành sản phẩm có tiềm năng ứng dụng, một số kết quả nghiên cứu được công bố trên các tạp chí khoa học uy tín. Dù quy mô nghiên cứu so với tiềm năng và kỳ vọng vẫn còn khiêm tốn, mức tăng trưởng này cho thấy sự quan tâm ngày càng lớn của sinh viên đối với hoạt động nghiên cứu khoa học.

GS.TS Nguyễn Lê Cường - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực
Đánh giá về ý nghĩa và chất lượng các đề tài nghiên cứu của sinh viên trong thời gian qua, PGS.TS Nguyễn Lê Cường - Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Điện lực nhấn mạnh vai trò ngày càng rõ nét của nghiên cứu khoa học trong việc gắn đào tạo với thực tiễn và nâng cao năng lực sáng tạo của người học đồng thời khẳng định “Nghiên cứu khoa học không chỉ góp phần nâng cao chất lượng đào tạo, mà còn là yếu tố cốt lõi giúp hình thành tư duy sáng tạo, rèn luyện năng lực nghiên cứu, phân tích và giải quyết vấn đề cho sinh viên. Nhà trường xác định phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên là nhiệm vụ trọng tâm.”
Từ khởi động đến triển khai bài bản
Sau giai đoạn ban hành quy chế và khởi động phong trào (2022-2023), hoạt động nghiên cứu khoa học tại Trường Đại học Điện lực bước sang giai đoạn mới từ năm 2024, khi được phát động rộng rãi và lần đầu tổ chức hội nghị sinh viên nghiên cứu khoa học ở cả cấp khoa và cấp trường. Đến năm 2025, theo báo cáo tổng kết, hoạt động này dần đi vào nền nếp, phạm vi tham gia được mở rộng, không chỉ sinh viên mà còn có sự tham gia của học viên cao học, nghiên cứu sinh và sinh viên quốc tế.
Hoạt động nghiên cứu khoa học của Nhà trường được triển khai trong bối cảnh Đảng và Nhà nước đang đẩy mạnh hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo, coi đây là động lực then chốt cho tăng trưởng nhanh và bền vững. Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã nhấn mạnh vai trò trung tâm của các cơ sở giáo dục đại học trong nghiên cứu, đào tạo và chuyển giao tri thức. Trong bối cảnh đó, việc thúc đẩy nghiên cứu khoa học trong sinh viên không chỉ là nhiệm vụ nội tại của Nhà trường mà còn là sự cụ thể hóa các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực khoa học công nghệ.
Giai đoạn vừa qua, hoạt động NCKH của trường tăng nhanh về số lượng. Chỉ số dễ nhận thấy nhất là quy mô đề tài nghiên cứu. Trong năm học 2024-2025, toàn Trường triển khai 169 đề tài nghiên cứu khoa học, tăng mạnh so với 116 đề tài năm 2024 và 19 đề tài năm 2023, phản ánh xu hướng tăng trưởng nhanh và liên tục trong ba năm gần đây.

Biểu đồ số lượng đề tài NCKH giai đoạn 2023–2025 cho thấy quy mô nghiên cứu của người học tăng mạnh, đặc biệt từ năm 2024 khi phong trào được tổ chức bài bản ở cấp khoa và cấp trường.
Biểu đồ số lượng đề tài nghiên cứu khoa học giai đoạn 2023-2025 cho thấy quy mô nghiên cứu tăng mạnh, đặc biệt từ năm 2024 khi phong trào được tổ chức bài bản ở cấp khoa và cấp trường.
Việc gia tăng số lượng không chỉ mang ý nghĩa mở rộng phong trào. Quan trọng hơn, theo đánh giá trong báo cáo tổng kết, hoạt động nghiên cứu khoa học đang từng bước mở rộng phạm vi tham gia, hình thành nền tảng ban đầu cho một hệ sinh thái nghiên cứu học đường, trong đó sinh viên được tiếp cận sớm hơn với phương pháp nghiên cứu, tư duy khoa học và kỹ năng làm việc học thuật.
Về chất lượng, báo cáo ghi nhận ba chuyển biến đáng chú ý: nhiều đề tài đã có mô hình, sản phẩm thực nghiệm; tính ứng dụng được cải thiện rõ rệt; và xuất hiện công bố khoa học trên các tạp chí quốc tế thuộc danh mục Scopus cũng như tạp chí được Hội đồng Giáo sư Nhà nước công nhận. Đây là dấu hiệu cho thấy nghiên cứu của sinh viên từng bước vượt khỏi khuôn khổ “bài tập học thuật”, tiếp cận các chuẩn đầu ra cao hơn của hoạt động khoa học công nghệ.
Tuy nhiên, tăng trưởng nhanh cũng đặt ra yêu cầu quản trị chất lượng chặt chẽ hơn. Báo cáo tổng kết hoạt động khoa học công nghệ của Trường đã chỉ ra hiện tượng “độ lan tỏa tốt nhưng chất lượng đề tài chưa thật sự tích cực” ở một số đơn vị dẫn đầu về số lượng. Điều này cho thấy bài toán đặt ra không chỉ là làm nhiều đề tài hơn mà là nâng chuẩn đề tài theo hướng ứng dụng thực chất, công bố khoa học và khả năng phát triển ở các cấp cao hơn.
Các đề tài tiêu biểu gắn với thực tiễn khoa học công nghệ và quản trị
Không dừng ở các chỉ số tổng hợp, định hướng nâng chất hoạt động nghiên cứu khoa học của sinh viên còn được thể hiện rõ qua những đề tài tiêu biểu được lựa chọn báo cáo tại Hội nghị, phản ánh xu hướng nghiên cứu gắn với các vấn đề thực tiễn của khoa học công nghệ và quản trị hiện đại.
Ở lĩnh vực điện tử viễn thông và công nghệ cao, đề tài “Kỹ thuật sửa lỗi biến dạng phi tuyến và hiệu chỉnh pha - biên độ trong các kênh thu radar mảng pha FMCW” do NCS Trương Hữu Đông Hà trình bày cho thấy khả năng tiếp cận những bài toán phức tạp của hệ thống radar hiện đại. Việc triển khai thuật toán hiệu chỉnh trên nền tảng RFSoC-FPGA với cấu hình 1T16R, cùng kết quả giảm sai lệch pha xuống dưới 1 độ, cải thiện độ rộng và độ lợi búp sóng chính, cho thấy tiềm năng ứng dụng trong các hệ thống radar giám sát, an ninh và kiểm soát UAV.
Trong lĩnh vực kinh tế - quản trị, đề tài “Study AI adoption in Vietnamese audit firms” của nhóm tác giả Nguyễn Thị Thùy Trang, Nguyễn Tố Tâm, Nguyễn Đình Nam, Nguyễn Mai Chi, Đào Khắc Đạt tiếp cận một vấn đề thời sự của quá trình chuyển đổi số. Thông qua mô hình tích hợp TOE-TAM và phân tích PLS-SEM, nghiên cứu chỉ ra rằng yếu tố công nghệ và môi trường cạnh tranh là động lực chính thúc đẩy việc ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong các doanh nghiệp kiểm toán tại Việt Nam, trong khi yếu tố tổ chức và áp lực từ các bên liên quan chưa tạo ra tác động thống kê đủ mạnh.

Nguyễn Trung Hiếu (Khoa Điều khiển và Tự động hóa) báo cáo đề tài nghiên cứu khoa học tại Hội nghị.
Ở lĩnh vực nhiệt điện và năng lượng, đề tài “Nghiên cứu, đánh giá ảnh hưởng của nhiệt độ nước làm mát tuần hoàn đến việc suy giảm công suất và hiệu suất các tổ máy tại Nhà máy Nhiệt điện Quảng Ninh” của nhóm sinh viên Phan Bá Đạt, Hoàng Thanh Phú, Tạ Quang Đại cho thấy hướng nghiên cứu gắn chặt với bài toán vận hành thực tế của doanh nghiệp. Trên cơ sở số liệu khảo sát tại nhà máy, mô hình hóa sơ đồ nhiệt và áp dụng chuẩn IAPWS-IF97, nhóm nghiên cứu đã lượng hóa mức suy giảm hiệu suất tổ máy khi nhiệt độ nước làm mát tăng, đồng thời đề xuất các giải pháp kỹ thuật, vận hành và quản lý, có ý nghĩa thực tiễn trong bối cảnh biến đổi khí hậu và yêu cầu nâng cao hiệu quả sử dụng năng lượng.
Mở rộng độ phủ hoạt động nghiên cứu khoa học
Một trong những con số quan trọng nhất được báo cáo là tỷ lệ sinh viên tham gia NCKH toàn Trường chỉ đạt khoảng 2,5 đến 2,58%, được đánh giá là mức thấp theo tiêu chí kiểm định giáo dục đại học. Để đạt mức “Đạt”, Nhà trường cần bổ sung khoảng 497 sinh viên tham gia nghiên cứu khoa học trong thời gian tới.

Tỷ lệ sinh viên tham gia NCKH toàn trường
Biểu đồ tỷ lệ sinh viên tham gia NCKH cho thấy khoảng cách đáng kể giữa quy mô phong trào hiện tại và mức khuyến nghị, phản ánh tính chưa phổ biến của hoạt động nghiên cứu trong cộng đồng sinh viên.
Nói cách khác, dù số lượng đề tài tăng nhanh, NCKH chưa trở thành hoạt động thường xuyên trong toàn Trường. Phân bố đề tài theo đơn vị cũng cho thấy sự không đồng đều, khi các khoa kỹ thuật - công nghệ chiếm tỷ trọng lớn như Khoa Kỹ thuật Điện (22,5%), Khoa Điều khiển & Tự động hóa (21,3%), trong khi một số đơn vị khác có tỷ trọng thấp hơn đáng kể.
Báo cáo đồng thời chỉ ra các điểm nghẽn “đầu vào” của hệ sinh thái nghiên cứu: tỷ lệ giảng viên tham gia hướng dẫn NCKH còn thấp (97 người); chưa có đề tài đủ chất lượng để xét tham dự ở các cấp cao hơn; chưa ghi nhận thành tích giải thưởng hoặc huy chương tại các cuộc thi học thuật. Đặc biệt, tại một số khoa, phần lớn đề tài vẫn do từng sinh viên thực hiện riêng lẻ, cho thấy năng lực tổ chức nghiên cứu theo nhóm còn hạn chế.
Từ thực trạng đó, các kiến nghị trong báo cáo tập trung vào những “đòn bẩy” then chốt: hoàn thiện cơ chế khuyến khích, ưu tiên đề tài có sản phẩm ứng dụng hoặc bài báo quốc tế; gắn hoạt động NCKH của sinh viên với nhiệm vụ chuyên môn của giảng viên để bảo đảm định hướng và đồng hành; tăng cường phổ cập phương pháp NCKH, kỹ năng viết bài và đạo đức nghiên cứu cho sinh viên từ năm nhất; định hướng đề tài theo hướng ứng dụng - đổi mới sáng tạo - khởi nghiệp hoặc gắn với doanh nghiệp; đồng thời hình thành các nhóm NCKH sinh viên theo định hướng nhóm nghiên cứu của giảng viên tại khoa.
Nhìn tổng thể, báo cáo tổng kết giai đoạn 2023-2025 cho thấy Trường Đại học Điện lực đã tạo được “đà” tăng trưởng rõ rệt về quy mô và bắt đầu xuất hiện tín hiệu nâng chất lượng công bố. Thách thức của giai đoạn tiếp theo không chỉ là duy trì nhịp tăng, mà là mở rộng độ phủ tham gia, chuẩn hóa chất lượng đề tài và tổ chức nghiên cứu theo nhóm, theo hướng ứng dụng và gắn kết doanh nghiệp, để nghiên cứu khoa học của người học thực sự trở thành một trụ cột của chất lượng đào tạo đại học.

THội nghị, Trường Đại học Điện lực tuyên dương và khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào nghiên cứu khoa học
Bên cạnh việc đánh giá kết quả chung, tại Hội nghị, Trường Đại học Điện lực cũng tuyên dương và khen thưởng các tập thể, cá nhân có thành tích xuất sắc trong phong trào nghiên cứu khoa học. Hoạt động này nhằm ghi nhận sự nỗ lực, tinh thần sáng tạo của sinh viên và vai trò đồng hành của giảng viên hướng dẫn, đồng thời tạo động lực để phong trào nghiên cứu khoa học tiếp tục lan tỏa và phát triển theo chiều sâu trong toàn Trường.












