Từ 1/8, cá nhân cho thuê nhà, chung cư có phải thành lập doanh nghiệp
Theo quy định của Luật Kinh doanh bất động sản 2024, cá nhân kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ không phải thành lập doanh nghiệp nhưng phải kê khai thuế.
Kể từ ngày 1/8, Luật Kinh doanh bất động sản 2024 có hiệu lực. Nhiều nội dung mới trong luật quy định về quyền và nghĩa vụ của tổ chức, cá nhân trong việc cho thuê nhà ở.
Tại Điều 9 (Điều kiện của bất động sản đưa vào kinh doanh) Luật Kinh doanh bất động sản 2024 quy định về điều kiện đối với tổ chức, cá nhân khi kinh doanh bất động sản.
Theo đó, tại Khoản 1 Điều 9 quy định tổ chức, cá nhân khi kinh doanh bất động sản phải thành lập doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về doanh nghiệp hoặc thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã theo quy định của pháp luật về hợp tác xã, có ngành, nghề kinh doanh bất động sản (gọi chung là doanh nghiệp kinh doanh bất động sản).
Tuy nhiên, có 2 trường hợp không phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh bất động sản được quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 9. Cụ thể:
- Cá nhân kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ thì không phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh bất động sản nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức, cá nhân bán nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng không nhằm mục đích kinh doanh hoặc bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng dưới mức quy mô nhỏ thì không phải tuân thủ các quy định của Luật này nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật.
Trường hợp cá nhân bán, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng thì còn phải thực hiện công chứng, chứng thực theo quy định tại khoản 5 Điều 44 (Hợp đồng trong kinh doanh bất động sản).
Bên cạnh đó, trường hợp tổ chức, cá nhân khi kinh doanh dịch vụ bất động sản phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ bất động sản thì phải đáp ứng các điều kiện dưới đây.
Thứ nhất, không trong thời gian bị cấm hoạt động kinh doanh bất động sản, bị tạm ngừng, bị đình chỉ hoạt động theo bản án, quyết định của Tòa án, quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Bảo đảm tỷ lệ dư nợ tín dụng, dư nợ trái phiếu doanh nghiệp trên số vốn chủ sở hữu.
Thứ hai, doanh nghiệp kinh doanh bất động sản thông qua dự án bất động sản phải có vốn chủ sở hữu không thấp hơn 20% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất dưới 20 ha, không thấp hơn 15% tổng vốn đầu tư đối với dự án có quy mô sử dụng đất từ 20 ha trở lên và phải bảo đảm khả năng huy động vốn để thực hiện dự án đầu tư.
Thứ ba, trường hợp doanh nghiệp kinh doanh bất động sản đồng thời thực hiện nhiều dự án thì phải có vốn chủ sở hữu đủ phân bổ để bảo đảm tỷ lệ nêu trên của từng dự án để thực hiện toàn bộ các dự án.