Từ chiếc chiếu cạnh bếp đến trạm y tế: Hành trình gian nan của cô đỡ vùng cao
Những cô đỡ thôn bản nơi núi rừng Lào Cai đã trải qua bao đêm mưa gió, bao con đường dốc trơn trượt để kịp đến bên sản phụ. Từ những ca sinh đầy rủi ro tại chiếc chiếu cạnh bếp, họ đã kiên trì vận động, mang kiến thức y tế đến từng ngôi nhà, giữ an toàn cho mẹ và bé.
Hành trình bền bỉ của cô đỡ thôn bản
Năm 2011, sau khóa đào tạo, chị Thào Thị Pà, dân tộc Mông, trở về thôn Pờ Sì Ngài, xã Bản Xèo, tỉnh Lào Cai nhận nhiệm vụ làm cô đỡ thôn bản. Khi ấy, đường xá hiểm trở, mùa mưa lũ trơn trượt, mùa đông sương mù dày đặc, việc đến cơ sở y tế gần như là bất khả thi. Phần lớn phụ nữ mang thai trong thôn chọn sinh con tại nhà, thậm chí ngay bên bếp lửa hoặc ngoài chòi nương.
"Hầu hết chị em chon sinh con tại nhà, có đến 90% các ca sinh nở được diễn ra trên chiếc giường cũ kỹ hoặc chiếc chiếu cạnh bếp hoặc ngoài chòi nương, chỉ cần 1 tai biến nhỏ là nguy hiểm tính mạng cả mẹ và em bé", cô đỡ Thài Thị Phà chia sẻ.
Không chỉ khó khăn về địa hình, chị Pà còn đối diện với rào cản nhận thức. Bà con tin rằng sinh con chỉ cần "cúng bái, khấn tổ tiên", hoặc viện dẫn "ngày xưa mẹ, bà cũng đẻ ở nhà". Vì vậy, số phụ nữ đi khám thai định kỳ hầu như rất ít. Chị Pà hiểu rằng chỉ có kiên trì đến tận nhà, vận động, thuyết phục thì mới dần thay đổi được suy nghĩ ấy.

Cô đỡ thôn bản chăm sóc bà mẹ sau sinh.
Đã có những đêm chị về muộn trong giá lạnh, bước chân chênh vênh trên đường núi, nhưng chị vẫn tự nhủ: "Chỉ cần một bà mẹ chịu thay đổi, công sức ấy cũng xứng đáng". Sau hơn mười năm, thói quen của bà con đã đổi thay rõ rệt: 80% phụ nữ mang thai đi khám định kỳ, phần lớn ca sinh có cán bộ y tế hỗ trợ, mẹ và bé được chăm sóc sau sinh an toàn hơn.

Cô đỡ Thào Thị Pà, dân tộc Mông, trở về thôn Pờ Sì Ngài, xã Bản Xèo, tỉnh Lào Cai.
Còn chị Lục Thị Lỳ, dân tộc Nùng, nhận nhiệm vụ làm cô đỡ thôn Na Vai, xã Bản Lầu, Lào Cai từ năm 2019. Ngày ấy, thôn bản chưa có nhân viên y tế, dân trí còn thấp, việc tiếp cận kiến thức chăm sóc sức khỏe thai sản rất hạn chế. Nhiều phụ nữ chỉ đi khám thai một hai lần, thậm chí có đến nửa số ca sinh nở diễn ra tại nhà.
Như chị Pà, chị Lỳ cũng bắt đầu bằng những bước chân bền bỉ đến từng hộ gia đình, lồng ghép tuyên truyền trong các buổi họp thôn, họp phụ nữ. Chị hướng dẫn bà mẹ về chế độ ăn uống, nghỉ ngơi, vệ sinh thai nghén, tiêm phòng, khám thai định kỳ, chọn nơi sinh an toàn. Sau sinh, chị đều đến thăm khám ít nhất ba lần, dặn dò cách chăm sóc mẹ và bé. Đến nay, nhờ sự tận tụy ấy, 98% phụ nữ mang thai trong thôn đi khám định kỳ, 100% ca sinh có cán bộ y tế hỗ trợ, tất cả bà mẹ và trẻ sơ sinh được chăm sóc sau sinh.
Chống lại hủ tục, bảo vệ bà mẹ sau sinh và trẻ em
Công việc của cô đỡ thôn bản gắn với không ít tình huống khiến họ rơi nước mắt. Chị Pà nhớ nhất trường hợp của chị Thào Thị Dế. Dù đã vận động nhưng chồng và mẹ chồng chị Dế một mực phản đối việc sinh tại cơ sở y tế. Không nản lòng, chị Pà nhiều lần đến trò chuyện, giải thích, thậm chí rủ cả chồng đi cùng để tạo thêm niềm tin. Cuối cùng, gia đình cũng đồng ý với điều kiện chính chị Pà phải trực tiếp đưa sản phụ đi. Khoảnh khắc nghe tiếng khóc chào đời an toàn, chị Pà xúc động đến rơi nước mắt – bao mệt nhọc đều tan biến.
Với chị Lỳ, kỷ niệm khó quên là lần chăm sóc một bà mẹ sau sinh 10 ngày. "Tôi vào lúc gần trưa nên đã gặp bà mẹ đang ăn cơm cùng gia đình. Trong mâm cơm khẩu phần ăn của bà mẹ chỉ có vài miếng thịt lợn nạc luộc, một bát canh ít rau nhưng rất nhiều hạt tiêu và một bát cơm trắng. Tôi hỏi người mẹ chồng: bà ơi, sao bà lại cho con dâu ăn như vậy? Bà đáp lại tôi, con dâu tôi đi đẻ mới ra viện, nó phải khâu nên không được ăn gì ngoài thịt lợn nạc và canh nhiều hạt tiêu cho ấm bụng".

Chị Lục Thị Lỳ, dân tộc Nùng, nhận nhiệm vụ làm cô đỡ thôn Na Vai, xã Bản Lầu, Lào Cai
Chị Lỳ giải thích cho mẹ chồng và bà mẹ hiểu từ bữa ăn đến cách vệ sinh cho mẹ và chăm sóc cho trẻ. Hằng ngày bữa ăn của một bà mẹ sau đẻ phải đầy đủ chất, phải có cả thịt và có cả rau, củ quả. Thịt thì có thể thay đổi, bữa nay ăn thịt gà, mai ăn thịt lợn, ăn trứng gà, rau thì có thể thay đổi như: bắp cải, rau ngót, quả đu đủ ninh xương, khoai tây… thì người mẹ mới có đủ dinh dưỡng cho con bú chỉ kiêng thức ăn chưa nấu chín thôi.
Vừa nói chị vừa tiến đến gỡ bớt những lớp tã dày cộp đang cuộn chặt em bé, để tay bé thoải mái và kiểm tra rốn cho trẻ. Thấy em bé thoải mái dễ chịu hơn nhiều, chị kiểm tra huyết áp, nhiệt độ cho mẹ cho trẻ.
"Khi về tôi cứ suy nghĩ mãi và cảm thấy không yên tâm Tôi biết họ là người dân tộc Mông nên việc đó rất khó tiếp thu, 5 ngày sau tôi quay lại và tôi cũng đến vào đúng bữa cơm trưa nhưng lần này thì khác hẳn trên mâm cơm đã có thịt gà, rau, quả chín và đứa trẻ không bị quấn chặt như trước nữa. cả gia đình và mẹ bé đều rất vui vẻ. Tôi rất mừng vì bà mẹ và em bé đã được chăm sóc đúng cách, họ thay đổi chính là họ tôn trọng tôi", cô đỡ Lục Thị Lỳ chia sẻ.

50 cô đỡ thôn bản gặp gỡ tại sự kiện Tuần lễ Làm mẹ an toàn năm 2025.
Cả chị Pà và chị Lỳ đều thừa nhận công việc này vất vả, phụ cấp ít ỏi, đường đi lại xa xôi. Nhưng chỉ cần nhìn thấy bà mẹ khỏe mạnh, trẻ em an toàn, mọi nhọc nhằn đều trở nên xứng đáng. Điều họ mong mỏi là được quan tâm hơn, có cơ hội tập huấn nâng cao trình độ, tham gia hội nghị chia sẻ kinh nghiệm. Họ cũng tha thiết được hỗ trợ thêm phụ cấp, xăng xe để có thể tiếp tục bám bản, đến tận từng ngôi nhà, đồng hành cùng những bà mẹ và em bé nơi vùng cao.
Hành trình của những cô đỡ thôn bản như Thào Thị Pà, Lục Thị Lỳ là minh chứng sống động cho sự bền bỉ, trách nhiệm và tình thương với cộng đồng. Giữa núi rừng khắc nghiệt, họ không chỉ "đỡ sinh mạng" cho từng ca sinh nở, mà còn góp phần thay đổi nhận thức, thắp lên niềm tin về một tương lai khỏe mạnh hơn cho bà mẹ và trẻ em nơi vùng cao.
Cô đỡ thôn bản không chỉ là người đỡ đẻ ở các thôn bản vùng sâu, vùng xa, mà còn là cầu nối giữa y tế hiện đại và văn hóa bản địa, là điểm tựa an toàn cho hàng nghìn sản phụ ở những nơi "trạm xá xa hơn chợ". Họ đã và đang viết nên câu chuyện về sự sống, niềm tin và sức mạnh cộng đồng - giữa những bản làng còn lắm khó khăn.
Từ con số hơn 3.000 cô đỡ thôn bản đã được đào tạo bài bản trong suốt hơn 30 năm qua. Các học viên phải trải qua ít nhất 6 tháng học lý thuyết và thực hành tại bệnh viện theo chương trình chuẩn của Bộ Y tế. Thế nhưng cho đến hiện nay chỉ còn 1.549 cô đỡ thôn bản đang hoạt động trong tổng số 5.111 thôn, bản đặc biệt khó khăn - tương đương chỉ khoảng 30% độ phủ. Hơn 1.500 cô đỡ đã ngừng hoạt động vì nhiều lý do: tuổi cao, mất, đi làm ăn xa, hoặc đơn giản là vì cuộc sống mưu sinh.