Từ chiến thắng Phước Long đến Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
Giữa năm 1974, xuất hiện một hình thái mới trên chiến trường miền Nam. Quân ngụy đang trên đà suy sụp nghiêm trọng khi có hàng vạn lính ngụy đào, rã ngũ; lực lượng cơ động chiến lược bị sa lầy; trình độ hiệp đồng tác chiến của các binh chủng ở mức thấp và yếu... Đặc biệt, chiến thắng Phước Long (6-1-1975) là 'đòn trinh sát chiến lược', cho thấy sự suy yếu của ngụy quân Sài Gòn và khả năng phản ứng rất hạn chế của đế quốc Mỹ. Báo Bình Phước xin trích đăng tham luận của Thượng tá Đỗ Thị Thanh Huyền, Phòng Khoa học quân sự Quân khu 7 trình bày tại Hội thảo khoa học 'Ý nghĩa lịch sử và tầm vóc chiến lược của chiến thắng Chiến dịch Đường 14 - Phước Long' do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bình Phước (cũ) phối hợp với Thị ủy Phước Long tổ chức ngày 5-1.
Từ chiến thắng Ðường 14 - Phước Long...
Cuối tháng 7-1974, Bộ Tư lệnh Miền giao nhiệm vụ cho Quân đoàn 4 “Mở chiến dịch tiến công Đường 14 - từ Đồng Xoài đến Bù Đăng, tiêu diệt 2 chi khu, 1 yếu khu và toàn bộ hệ thống đồn bốt địch, giải phóng Đường 14”.
Đợt 1 chiến dịch bắt đầu vào rạng sáng 13-12. Quân đoàn 4 vận dụng cách đánh đột phá trên hướng chủ yếu là Chi khu Quân sự Bù Đăng. Sư đoàn 3 sử dụng Trung đoàn 271 tiến công trên hướng chủ yếu vào Chi khu Quân sự Bù Đăng, Trung đoàn 201 tiến công trên hướng thứ yếu vào căn cứ Vĩnh Thiện. Đồng thời lực lượng chủ lực kết hợp với lực lượng vũ trang địa phương tiến công hàng loạt đồn bốt trên đường 14 nhằm chia cắt địch, vây ép yếu khu Bù Na, cô lập Tiểu khu Phước Long. Sau 6 ngày chiến đấu “Quân đoàn 4 và lực lượng vũ trang địa phương đã đập tan hệ thống phòng thủ của địch trên đường 14 đoạn từ km11 đến Kiến Đức dài hơn 100km đánh chiếm một chi khu, một yếu khu, diệt và bức rút 60 đồn bốt”1.
Đợt 2 ta vận dụng cách đánh tiến công địch trong công sự. Trung đoàn 165 tiến công đồn Phước Tín và Chi khu Bù Đốp trên hướng thứ yếu vào rạng sáng 23-12. Sáng 26-12-1974, ta đồng loạt nổ súng, sau 4 ngày chiến đấu ác liệt, ta tiêu diệt 2 chi khu, nhiều đồn bốt, đánh tan 2 tiểu đoàn bảo an, giải phóng hoàn toàn đường 14 và đưa lực lượng áp sát Phước Long.

Xe tăng cùng bộ binh quân giải phóng tấn công vào dinh Tỉnh trưởng Phước Long ngày 6-1-1975 - Ảnh: TTXVN
Đợt 3 chiến dịch, ta đánh chiếm Tiểu khu Phước Long, giải phóng thị xã, phải phá thế chân vạc, đập tan tuyến phòng thủ ngoại vi của địch. Cách đánh chủ yếu vẫn là hiệp đồng binh chủng, tiến công địch trong công sự vững chắc. Đến 10 giờ 30 phút ngày 6-1-1975, lá cờ “Quyết chiến quyết thắng” của quân đoàn đã tung bay trên nhà Tỉnh trưởng Phước Long. Đến 19 giờ cùng ngày, vị trí cố thủ cuối cùng của địch bị ta tiêu diệt. Quân đoàn 4 cùng với nhân dân và lực lượng vũ trang địa phương đã giải phóng hoàn toàn thị xã Phước Long và toàn bộ tỉnh Phước Long.
Chiến thắng Đường 14 - Phước Long còn có ý nghĩa như một “trận trinh sát chiến lược”. Qua “sự kiện Phước Long”, ta hiểu địch hơn; quân ngụy không đủ khả năng đối phó cùng một lúc với nhiều hướng tiến công của ta, không có khả năng chiếm lại một thị xã bị đánh chiếm; còn Mỹ, không can thiệp trở lại miền Nam bằng bất cứ hình thức nào để cứu chính quyền Sài Gòn.
Và Chiến dịch Tây Nguyên, Huế - Ðà Nẵng
Trước tình hình mới, đặc biệt là tin chiến thắng của Chiến dịch Đường 14 - Phước Long, hội nghị Bộ Chính trị mở rộng (từ ngày 18-12-1974 đến 8-1-1975) đã kết luận: “Chúng ta đang đứng trước thời cơ chiến lược lớn, chưa bao giờ ta có điều kiện đầy đủ về quân sự và chính trị như hiện nay, có thời cơ chiến lược to lớn như hiện nay để hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, để tiến tới hòa bình, thống nhất Tổ quốc”2. Bộ Chính trị hạ quyết tâm động viên toàn Đảng, toàn dân, toàn quân nỗ lực hoàn thành giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976. Bộ Chính trị còn dự kiến, nếu thời cơ đến vào đầu hoặc cuối năm 1975 thì lập tức giải phóng miền Nam trong năm 1975.
Chiến dịch Tây Nguyên mở đầu cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 đã giành được thắng lợi vang dội bằng trận Buôn Mê Thuột. Mở đầu trận này, sau khi cắt đứt các đường giao thông chiến lược, cô lập Tây Nguyên với đồng bằng ven biển, cô lập Buôn Mê Thuột với Pleiku và Kon Tum, sau khi nghi binh thu hút sự chú ý của địch về hướng Pleiku, ta đã dùng lực lượng mạnh của các binh chủng hợp thành, táo bạo và bất ngờ tiến công thẳng vào thị xã Buôn Mê Thuột. Sau hơn 32 giờ chiến đấu, vào lúc 10 giờ 30 phút ngày 11-3 ta đã làm chủ hoàn toàn thị xã.
Ngày 24-3-1975, giữa lúc trận đánh Huế đang diễn ra quyết liệt, Quân ủy Trung ương và Bộ Tổng tư lệnh đã quyết định mở trận tiến công Đà Nẵng với tư tưởng chỉ đạo: kịp thời nhất, nhanh chóng nhất, táo bạo nhất, bất ngờ nhất và phải chắc thắng, làm cho địch không kịp trở tay. Ngụy quyền tuyên bố quyết “tử thủ” Đà Nẵng bằng bất cứ giá nào.
Ngày 28-3-1975, các binh đoàn của ta từ 3 phía: Huế, Tam Kỳ, Thượng Đức ào ào nhằm hướng Đà Nẵng xông tới, đập tan hệ thống phòng thủ của địch, tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng các đơn vị chủ lực của địch, đánh chiếm các sân bay và các căn cứ quan trọng, khống chế chặt chẽ bến cảng và các con đường rút chạy, nhanh chóng tiến vào trung tâm thành phố Đà Nẵng. Ngày 29-3-1975, sau hơn 30 giờ tiến công và nổi dậy, quân và dân ta đã giải phóng Đà Nẵng - thành phố lớn thứ hai ở miền Nam.
Ngày 25-3-1975, Bộ Chính trị họp chính thức nhận định: Cuộc tổng tiến công chiến lược của ta bắt đầu từ Chiến dịch Tây Nguyên đã giành thắng lợi lớn. Ta có điều kiện hoàn thành nhiệm vụ giải phóng miền Nam sớm hơn dự kiến, cần tập trung nhanh nhất lực lượng, binh khí kỹ thuật và vật chất giải phóng Sài Gòn trước mùa mưa.
...đến Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
Bộ Chính trị đã quyết định thành lập Bộ Chỉ huy và Đảng ủy mặt trận Sài Gòn - Gia Định do tập thể các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị tại chiến trường lãnh đạo và chỉ đạo. Đồng chí Lê Đức Thọ thay mặt Bộ Chính trị, đồng chí Văn Tiến Dũng, Tổng Tham mưu trưởng trực tiếp làm Tư lệnh Bộ Chỉ huy chiến dịch, đồng chí Phạm Hùng làm Chính ủy. Mọi việc được tiến hành theo khẩu hiệu “thần tốc, táo bạo, bất ngờ, chắc thắng”. Khí thế của ngày hội lớn ra quân càng trở nên vô cùng náo nức, hào hứng khi toàn Đảng, toàn dân và toàn quân được biết tin Bộ Chính trị quyết định chiến dịch giải phóng Sài Gòn được mang tên là “Chiến dịch Hồ Chí Minh”.
Ngày 26-4-1975, tiếng súng mở đầu Chiến dịch Hồ Chí Minh đã nổ. Những trận chiến đấu ác liệt và bão lửa dữ dội diễn ra trước hết ở hướng Đông - hướng địch tập trung nhiều lực lượng và phản kích điên cuồng. Từ khắp các hướng, 5 cánh quân lớn của ta, hiệp đồng với các lực lượng vũ trang địa phương và được sự giúp sức của quần chúng nổi dậy, nhất loạt tiến công địch với sức mạnh vũ bão.
10 giờ 45 phút ngày 30-4, bộ đội ta chiếm Dinh Độc Lập giữa lúc ngụy quyền Sài Gòn đang họp các tổng trưởng để làm lễ ra mắt “tân nội các”. 11 giờ 30 phút ngày 30-4-1975, lá cờ cách mạng đã được cắm lên nóc Phủ Tổng thống ngụy. Tổng thống ngụy quyền Dương Văn Minh phải đầu hàng không điều kiện. Chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi!
Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã giành toàn thắng. Chỉ trong 55 ngày đêm, với sức mạnh áp đảo về quân sự và chính trị, quân và dân ta đã tiêu diệt và làm tan rã hoàn toàn đội quân ngụy gồm 1 triệu tên và làm rã 1,5 triệu tên phòng vệ dân sự, đập tan bộ máy ngụy quyền, đập tan ách thống trị thực dân mới của Mỹ. Từ chiến thắng Đường 14 - Phước Long, “đòn trinh sát chiến lược”, giúp Trung ương Đảng củng cố quyết tâm giải phóng miền Nam đến Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử hoàn thành thắng lợi công cuộc giải phóng miền Nam, thực hiện trọn vẹn Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Cuộc chống Mỹ cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn… Tổ quốc ta nhất định thống nhất, đồng bào Nam - Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”3.
1. Lịch sử Quân đoàn 4 (Binh đoàn Cửu Long) 1974-2004, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2004, tr. 112.
2. Lịch sử kháng chiến chống Mỹ cứu nước, tập 2, Nxb Sự thật, H. 1991, tr 184.
3. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 15, NXB Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 621, 623.