Từ chuyến thăm của Tổng Bí thư nghĩ về trụ cột Công Thương trong giấc mơ sông Hồng

Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng giống Việt Nam đã rũ bùn đứng dậy trong đống đổ nát của chiến tranh, gợi mở cho chúng ta những bài học hôm nay.

Thời điểm vàng

Ba thập kỷ qua, Việt Nam - Hàn Quốcđã kiến tạo một mối quan hệ hợp tác hiếm có về tốc độ và chiều sâu. Từ mốc thiết lập ngoại giao năm 1992, kim ngạch thương mại song phương đã tăng hơn 160 lần, Hàn Quốc trở thành nhà đầu tư số một và đối tác thương mại lớn thứ ba của Việt Nam.

Tổng Bí thư Tô Lâm hội đàm với Tổng thống Hàn Quốc Lee Jae Myung sáng ngày 11/8 theo giờ Hàn Quốc. Ảnh: TTXVN

Tổng Bí thư Tô Lâm hội đàm với Tổng thống Hàn Quốc Lee Jae Myung sáng ngày 11/8 theo giờ Hàn Quốc. Ảnh: TTXVN

Chuyến thăm chính thức Hàn Quốc của Tổng Bí thư Tô Lâm và phu nhân với tư cách Quốc khách đầu tiên của chính quyền mới, thể hiện sự coi trọng của lãnh đạo cấp cao 2 nước với quan hệ song phương. Ảnh: TTXVN

Chuyến thăm chính thức Hàn Quốc của Tổng Bí thư Tô Lâm và phu nhân với tư cách Quốc khách đầu tiên của chính quyền mới, thể hiện sự coi trọng của lãnh đạo cấp cao 2 nước với quan hệ song phương. Ảnh: TTXVN

Chuyến thăm chính thức Hàn Quốc của Tổng Bí thư Tô Lâm và phu nhân với tư cách Quốc khách đầu tiên của chính quyền mới, thể hiện sự coi trọng của lãnh đạo cấp cao 2 nước với quan hệ song phương. Chuyến thăm không chỉ là sự kiện ngoại giao, mà là thời khắc định hướng 30 năm tiếp theo. Đây là thời điểm vàng để Việt Nam học hỏi mô hình phát triển Hàn Quốc, tránh bẫy thu nhập trung bình, tiến tới mục tiêu nước thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI với kỷ nguyên vươn mình của dân tộc mà Tổng Bí thư Tô Lâm khởi xướng.

Tinh thần ấy thể hiện rất rõ khi Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao Bùi Thanh Sơn trả lời phỏng vấn báo chí Hàn Quốc đã nhấn mạnh, chuyến thăm Hàn Quốc của Tổng Bí thư lần này là sự khẳng định mạnh mẽ quyết tâm của Việt Nam trong việc làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện với Hàn Quốc. Với mong muốn tin cậy chính trị cao hơn, phối hợp chiến lược chặt chẽ hơn, hợp tác thực chất toàn diện hơn và tình cảm hữu nghị giữa người dân hai nước gắn bó hơn.

Đây cũng là dịp quan trọng để Lãnh đạo cao nhất của hai nước trao đổi toàn diện về những biện pháp lớn, xác định ưu tiên và mở ra những hướng hợp tác mới trong các lĩnh vực để tiếp tục đưa quan hệ Việt - Hàn tiến vững, tiến xa trong kỷ nguyên phát triển mới…

Theo Phó Thủ tướng, hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư luôn là một trong những trụ cột quan trọng trong quan hệ hai nước, là nguồn động lực chính thúc đẩy sự phát triển về mọi mặt của cả Việt Nam và Hàn Quốc.

Nhìn lại bức tranh hợp tác có thể thấy rất rõ, quan hệ Việt - Hàn đã “đủ độ chín” để chuyển từ hợp tác theo dự án sang hợp tác chiến lược toàn diện, đồng kiến tạo giá trị và công nghệ, thay vì chỉ là dòng vốn - dòng hàng. Nếu bỏ lỡ, ta sẽ bị khóa chặt ở vị trí “công xưởng phụ” thay vì trung tâm sáng tạo.

Vai trò Hàn Quốc trong kinh tế Việt Nam rất rõ trong bảng số liệu tạm thống kê dưới đây:

Bảng 1 - Các chỉ số hợp tác chủ chốt (2024). Nguồn: Bộ Tài chính Việt Nam, KOTRA Hàn Quốc

Có thể kể ra các lĩnh vực hợp tác trụ cột: Công nghiệp chế biến - chế tạo: Samsung, LG, Hyundai, POSCO... xây cụm công nghiệp lớn. Thương mại hàng hóa: Việt Nam xuất khẩu điện thoại, dệt may, thủy sản; nhập khẩu linh kiện, máy móc. Năng lượng - hạ tầng: Dự án LNG, điện gió ngoài khơi, cảng nước sâu, metro. Khoa học - công nghệ: R&D, startup, đào tạo nhân lực.

Tuy nhiên, quan hệ hiện nay chủ yếu nghiêng về FDI và xuất khẩu gia công. Thách thức là làm sao dịch chuyển lên nấc thang giá trị cao hơn, để không phụ thuộc vào vài tập đoàn lớn.

Bài học từ giấc mơ sông Hàn

Giấc mơ Sông Hàn - Hangang-ui Gijeok/Miracle on the Han River là cách gọi quá trình tăng trưởng kinh tế thần kỳ của Hàn Quốc. Tên gọi xuất phát từ hình ảnh thủ đô Seoul nằm bên sông Hàn, nơi tập trung các biểu tượng hiện đại hóa, công nghiệp hóa và thịnh vượng của Hàn Quốc. Bài học thành công của Hàn Quốc có ý nghĩa rất hay cho Việt Nam hiện nay với 5 trụ cột trong chiến lược công nghiệp - thương mại mà Hàn Quốc từng xác định.

Thứ nhất là công nghiệp hóa hướng xuất khẩu (HCI).

Khởi đầu từ đầu thập niên 1960, Hàn Quốc xác định rõ: Muốn tăng trưởng nhanh, phải sản xuất những gì thế giới cần và sẵn sàng mua. Chính phủ chọn 4 ngành mũi nhọn đầu tiên: Thép, hóa chất, đóng tàu, điện tử và tập trung mọi nguồn lực để biến chúng thành trụ cột xuất khẩu.

Nhà nước cung cấp tín dụng ưu đãi, bảo hộ có thời hạn. Doanh nghiệp (chủ yếu là chaebol) được giao nhiệm vụ chinh phục thị trường toàn cầu. Đây là “cú hích tập trung” mà Việt Nam cần cân nhắc. Phân tán nguồn lực cho quá nhiều ngành sẽ khiến không ngành nào đủ sức vươn lên dẫn dắt.

Các tập đoàn như Samsung, Hyundai, LG, POSCO đóng vai trò “quả đấm thép” đưa sản phẩm Hàn Quốc ra thế giới

Các tập đoàn như Samsung, Hyundai, LG, POSCO đóng vai trò “quả đấm thép” đưa sản phẩm Hàn Quốc ra thế giới

Thứ hai, Chaebol - Doanh nghiệp quốc gia dẫn dắt.

Các tập đoàn như Samsung, Hyundai, LG, POSCO đóng vai trò “quả đấm thép” đưa sản phẩm Hàn Quốc ra thế giới. Chính phủ không chỉ hỗ trợ, mà còn buộc họ phải cạnh tranh quốc tế, tránh tâm lý “an toàn trong thị trường nội địa”.

Đổi lại, các tập đoàn này chịu trách nhiệm tạo việc làm, phát triển công nghiệp hỗ trợ và đào tạo nhân lực. Việt Nam không thể sao chép mô hình chaebol nguyên bản, nhưng có thể phát triển các “tập đoàn quốc gia” trong một số ngành chiến lược như năng lượng, bán dẫn, công nghệ số - vừa làm trụ cột xuất khẩu, vừa kéo cả chuỗi cung ứng nội địa.

Thứ ba, hệ thống xúc tiến thương mại - đầu tư: KOTRA.

Thành lập từ 1962, KOTRA hiện có hơn 130 văn phòng tại 84 quốc gia, đóng vai trò vừa là “đại sứ thương mại” vừa là “trinh sát thị trường” cho doanh nghiệp Hàn Quốc. Cung cấp thông tin tình báo thương mại, kết nối B2B, hỗ trợ pháp lý, đào tạo xuất khẩu.

KOTRA thành công nhờ sự chuyên nghiệp và quyền hạn rộng. Đây là mô hình mà Việt Nam nên phát triển, biến hệ thống thương vụ thành các trung tâm xúc tiến “đa năng” tại thị trường chiến lược, thay vì chỉ dừng ở vai trò hành chính - báo cáo.

Thứ tư, mạng lưới FTA và khu kinh tế tự do (FTZ).

Hàn Quốc sở hữu 18 FTA bao phủ khoảng 70% GDP toàn cầu, giúp hàng hóa họ tiếp cận nhanh và rẻ hơn vào các thị trường lớn. FTZ gắn với cảng biển, sân bay, khu logistics, giúp rút ngắn thời gian thông quan và giảm chi phí xuất khẩu. Việt Nam đã có nhiều FTA nhưng hiệu quả khai thác chưa đồng đều. Bài học từ Hàn Quốc là FTA chỉ thực sự có giá trị khi gắn với năng lực sản xuất và logistics nội địa đủ mạnh.

Thứ năm, đầu tư vào R&D và công nghệ mũi nhọn

Hàn Quốc chi gần 5% GDP cho R&D - mức cao nhất thế giới, tập trung vào bán dẫn, công nghệ sinh học, AI, pin và năng lượng xanh. Nhà nước hỗ trợ mạnh mẽ qua giảm thuế, tài trợ nghiên cứu và đầu tư hạ tầng công nghệ. Việt Nam khó đạt ngay tỷ lệ này, nhưng việc nâng chi R&D lên ≥2% GDP trong thập kỷ tới là khả thi nếu coi đây là ưu tiên chiến lược, thay vì khoản chi “thử nghiệm”.

Hàn Quốc không phải hình mẫu duy nhất, nhưng là tấm gương gần gũi nhất với Việt Nam về xuất phát điểm và khát vọng. Ảnh: Nam Nguyễn

Hàn Quốc không phải hình mẫu duy nhất, nhưng là tấm gương gần gũi nhất với Việt Nam về xuất phát điểm và khát vọng. Ảnh: Nam Nguyễn

Kết quả Hàn Quốc đã lập nên “kỳ tích” đến cường quốc với GDP/người: từ ~70 USD (1960) lên >30.000 USD (2023). Xuất khẩu: từ 55 triệu USD (1962) lên >680 tỷ USD (2022), nằm trong top 7 thế giới. Công nghiệp: Từ nông nghiệp chiếm 40% GDP (1960) xuống

Từ thành công đó, một số chuyên gia kinh tế đề xuất gợi mở chính sách cho Bộ Công Thương Việt Nam một số giải pháp quan trọng.

Một là, hết sức quan tâm công nghiệp hóa hướng xuất khẩu (HCI).

Hàn Quốc chọn ngành mũi nhọn (thép, đóng tàu, hóa chất, điện tử), tập trung nguồn lực, bảo hộ có thời hạn, buộc doanh nghiệp cạnh tranh quốc tế. Đây là “nghệ thuật chọn trận đánh” - không dàn trải, mà dồn lực tạo cú hích mà Việt Nam cần quan tâm.

Hai là, tham khảo mô hình Chaebol - Tập đoàn dẫn dắt.

Samsung, Hyundai, LG… là “quả đấm thép” toàn cầu, vừa kéo ngành công nghiệp hỗ trợ, vừa tạo hàng triệu việc làm.Việt Nam cần tạo “tập đoàn quốc gia” ở bán dẫn, năng lượng tái tạo, AI.

Ba là, quan tâm mô hình KOTRA - Hệ thống xúc tiến toàn cầu.

Hơn 130 văn phòng tại 84 quốc gia, vừa là đại sứ thương mại, vừa là tình báo thị trường. Mô hình này giúp Hàn Quốc chủ động mở thị trường, không phụ thuộc hoàn toàn vào FDI.

Bốn là, mạng lưới FTA & FTZ

18 FTA bao phủ 70% GDP toàn cầu; khu kinh tế tự do gắn với cảng biển, sân bay, logistics. Việt Nam có nhiều FTA tương tự Hàn Quốc nhưng chưa tận dụng tối đa vì logistics yếu.

Năm là, đầu tư cho R&D

Chi khoảng 5% GDP cho R&D, tập trung công nghệ mũi nhọn. Đây chính là “nhiên liệu” duy trì sức bật liên tục.

Hiện thực hóa giấc mơ sông Hồng

Việt Nam đang ở “điểm” mà Hàn Quốc từng ở cuối thập niên 1980 - giai đoạn chuẩn bị bứt phá. Khác biệt lớn là Việt Nam hội nhập trong thời đại số, có thể rút ngắn bằng công nghệ và FDI chất lượng cao để lập nên kỳ tích giấc mơ sông Hồng. Đây là “cửa sổ cơ hội” 15 - 20 năm. Nếu chậm, ta sẽ bị khóa ở bẫy thu nhập trung bình.

Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng bộ Bộ Công Thương nhiệm kỳ 2025 - 2030 đề ra các chỉ tiêu phấn đấu có ý nghĩa chiến lược

Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng bộ Bộ Công Thương nhiệm kỳ 2025 - 2030 đề ra các chỉ tiêu phấn đấu có ý nghĩa chiến lược

Báo cáo Chính trị Đại hội Đảng bộ Bộ Công Thương nhiệm kỳ 2025 - 2030, xin phân tích sâu các chỉ tiêu, nhiệm vụ mà Bộ đề ra, gắn với giấc mơ phát triển công nghiệp - thương mại để đuổi kịp Hàn Quốc:

Thứ nhất, các chỉ tiêu phấn đấu có ý nghĩa chiến lược.

Đại hội đã xác lập những chỉ tiêu cụ thể cho giai đoạn 2025 - 2030: Tỷ trọng công nghiệp đạt khoảng 35% GDP, trong đó công nghiệp chế biến - chế tạo chiếm khoảng 28%. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 12 - 12,5%/năm.

Tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa đạt 13,5 - 14,5%/năm; xuất khẩu trong nước tăng 10 - 12%. Tổng mức bán lẻ và doanh thu dịch vụ tiêu dùng tăng 13 - 13,5%/năm. Điện thương phẩm đạt 500 - 558 tỷ kWh, tỷ trọng năng lượng tái tạo chiếm khoảng 30%; tiết kiệm năng lượng 5 - 7%, tiêu hao năng lượng giảm 1 - 1,5% GDP… So với mô hình Hàn Quốc những giải pháp trên đều rất phù hợp:

Việc tăng tỷ trọng công nghiệp & IIP tăng mạnh đặt nền móng cho công nghiệp Việt Nam tương tự Hàn Quốc trong thập niên 1970 - 1980, với trọng tâm là công nghiệp chế biến - chế tạo vốn là khởi đầu cho xuất khẩu và tích lũy nội lực công nghệ. IIP tăng 12% mỗi năm là dấu hiệu năng lực sản xuất đang được số hóa, tự động hóa và hiện đại hóa - tương đương bước đà để xây dựng các ngành mũi nhọn như điện tử, cơ khí chính xác, năng lượng xanh.

Giai đoạn 2025 - 2030 xuất khẩu trong nước đặt chỉ tiêu tăng 10 - 12%

Giai đoạn 2025 - 2030 xuất khẩu trong nước đặt chỉ tiêu tăng 10 - 12%

Xuất khẩu tăng trưởng mạnh, đặc biệt doanh nghiệp trong nước với tốc độ 13,5 - 14,5%/năm đặt tham vọng ngang với trình độ tăng trưởng của Hàn Quốc giai đoạn công nghiệp hóa. Trọng tâm vào doanh nghiệp trong nước giúp giảm phụ thuộc FDI, tạo thương hiệu quốc gia - điều mà Hàn Quốc đã làm ngoạn mục.

Tăng trưởng bán lẻ và dịch vụ tiêu dùng nội địa với tốc độ tăng bình quân khoảng 13% cho thấy Việt Nam không ở “mãi là xưởng xuất khẩu”, mà đang xây dựng thị trường nội địa đủ sức hấp thụ sản phẩm giá trị cao. Hàn Quốc từng phát triển mạnh hệ thống phân phối nội địa trước khi vươn ra thế giới.

Năng lượng và chuyển đổi xanh với 30% năng lượng từ tái tạo là cam kết rõ nét cho phát triển bền vững và giảm phát thải - đảm bảo rằng tăng trưởng không đánh đổi môi trường. Tiết kiệm năng lượng 5 - 7% mỗi năm cho thấy chủ động nâng cao hiệu suất sản xuất - điều Hàn Quốc cũng chú trọng trong mũi nhọn công nghệ.

Những chỉ tiêu mà Bộ Công Thương đề ra không chỉ phản ánh khát vọng công nghiệp hóa – hiện đại hóa mà còn cho thấy phương pháp tiếp cận chiến lược:

Về lộ trình phát triển của Việt Nam có thể triển khai theo định hướng sau:

Giai đoạn 2025 - 2030: Hoàn thiện hạ tầng, logistics. Tập trung 5 ngành mũi nhọn: Bán dẫn, năng lượng tái tạo, vật liệu mới, cơ khí chính xác, hóa chất xanh. Tăng nội địa hóa điện tử, ô tô.

Giai đoạn 2030 - 2040: Thương hiệu công nghệ Việt Nam. Xuất khẩu công nghệ cao ≥60%. Giai đoạn 2040 - 2050: GDP/người ≥25.000 USD.Trung tâm công nghệ - thương mại châu Á.

Để có thể hoàn thành được định hướng phát triển đó, ngành công thương có thể lựa chọn một số hướng đột phá dưới đây:

Thứ nhất, chọn 4 - 5 ngành mũi nhọn để “đặt cược” như Hàn Quốc từng làm.

Thứ hai, phát triển 2 - 3 tập đoàn quốc gia trong ngành chiến lược.

Thứ ba, nâng cấp hệ thống thương vụ thành mạng lưới xúc tiến đa năng kiểu KOTRA.

Thứ tư, tối đa hóa FTA bằng trung tâm hỗ trợ doanh nghiệp.

Thứ năm, tăng chi R&D ≥2% GDP vào 2030.

Thứ sáu, chính sách công nghiệp số - xanh, học mô hình Korean New Deal.

Thứ bảy, đào tạo nhân lực chất lượng cao qua hợp tác trường - viện - doanh nghiệp Hàn. Đây là “danh sách việc cần làm ngay” trong 3 - 5 năm. Nếu triển khai đồng bộ, Việt Nam sẽ tạo cú nhảy vọt thay vì tiến chậm dần đều.

Hàn Quốc không phải hình mẫu duy nhất, nhưng là tấm gương gần gũi nhất với Việt Nam về xuất phát điểm và khát vọng. Bài học lớn nhất là tầm nhìn dài hạn cùng với quyết tâm chính trị và năng lực thực thi. Nếu hội tụ ba yếu tố này, Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra “Kỳ tích sông Hồng” trong thế kỷ XXI.

1. Phụ lục 1 - Timeline 60 năm phát triển công nghiệp - thương mại Hàn Quốc

Có thể thấy, Hàn Quốc là ví dụ hiếm hoi về một quốc gia châu Á đi từ nghèo đói lên giàu có trong chưa đầy ba thế hệ. Bài học của họ không phải “bản sao” mà Việt Nam có thể áp dụng nguyên xi, nhưng là “tấm bản đồ” giúp tránh những sai lầm và rút ngắn thời gian thử nghiệm. Cơ hội không đến nhiều lần. Việt Nam đang đứng trước thời khắc giống như Hàn Quốc đầu thập niên 1980 – khi quyết định đúng sẽ mở ra “kỳ tích sông Hồng”, còn quyết định chậm sẽ khiến ta bỏ lỡ chuyến tàu của thế kỷ.

Đại Bàng

Nguồn Công Thương: https://congthuong.vn/tu-chuyen-tham-cua-tong-bi-thu-nghi-ve-tru-cot-cong-thuong-trong-giac-mo-song-hong-414735.html