Từ Đại hội đến Đại hội - Hai câu chuyện, một quyết tâm (Kỳ 1)



Sau ngày đất nước thống nhất (1975), tỉnh Đồng Nai được thành lập, Bình Phước khi ấy vẫn thuộc tỉnh Sông Bé. Cả hai vùng đất đều bước ra từ khói lửa hậu chiến tranh với nền kinh tế kiệt quệ, đời sống nhân dân bộn bề thiếu thốn, hệ thống chính trị non trẻ cần được củng cố. Trong hoàn cảnh ấy, những kỳ Đại hội đầu tiên đã thể hiện rõ bản lĩnh, trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng bộ, đặt nền móng cho những bước đi dài hạn.
Đầu tháng 1-1976, Trung ương ra quyết định thành lập tỉnh Đồng Nai trên cơ sở sáp nhập ba tỉnh: Biên Hòa, Bà Rịa - Long Khánh, Tân Phú, đồng thời chỉ định Ban Chấp hành lâm thời Đảng bộ tỉnh Đồng Nai gồm có 39 ủy viên chính thức và 5 ủy viên dự khuyết. Ban Thường vụ gồm có 11 ủy viên. Đồng chí Lê Quang Chữ (Sáu Nhân) nguyên Bí thư Khu ủy miền Đông được chỉ định Bí thư Tỉnh ủy; Phạm Văn Hy (Tư Hy) Phó Bí thư, Nguyễn Văn Lá (Sáu Trung) Phó Bí thư, Chủ tịch UBND tỉnh Đồng Nai.
Tỉnh ủy, UBND tỉnh và các đoàn thể cách mạng Đồng Nai được thành lập, hình thành hệ thống chuyên chính cách mạng hoàn chỉnh. Trong kháng chiến chống Mỹ, dù nhiều lần tách nhập theo yêu cầu chiến lược, Đồng Nai vẫn là chiến trường kiên cường. Cán bộ, đảng viên, từng sát cánh chiến đấu, nay chung một Đảng bộ, đoàn kết gắn bó, tạo sức mạnh tổng hợp để lãnh đạo nhiệm vụ mới: phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội địa phương.

Đến cuối năm 1976, khi đã đạt được những kết quả nhất định trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, Đảng bộ Đồng Nai tiến hành Đại hội đại biểu lần thứ nhất.


Ngày 6-1-1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng ra quyết định Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ nhất (vòng 1) diễn ra từ ngày 11 đến 21-11-1976 với 420 đại biểu chính thức, đại diện cho 6.810 đảng viên của 17 Đảng bộ huyện, thành phố, 7 Đảng bộ trực thuộc và 509 chi bộ, Đảng bộ cơ sở tham dự.
Đại hội bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa I (nhiệm kỳ 1976-1978) gồm 41 đồng chí (có 2 ủy viên dự khuyết). Đồng chí Lê Quang Chữ được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Nguyễn Thị Bạch Tuyết được bầu làm Phó bí thư Tỉnh ủy. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ nhất (vòng 2) diễn ra từ ngày 6 đến 10-4-1977 được tổ chức để đề ra phương hướng, nhiệm vụ xây dựng kinh tế - xã hội của tỉnh.

Nghị quyết của Đại hội Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ nhất là sự vận dụng Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV vào điều kiện cụ thể của tỉnh. Với những kết quả đã đạt được sau gần 2 năm khắc phục hậu quả chiến tranh, Đảng bộ và Nhân dân Đồng Nai bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm (1976-1980).

Nghị quyết Đại hội xác định 4 mục tiêu trọng tâm: ổn định chính trị, khắc phục hậu quả chiến tranh, cải tạo xã hội chủ nghĩa trong nông - công thương nghiệp và xây dựng hệ thống tổ chức Đảng từ tỉnh đến cơ sở. Chỉ vài năm sau, kết quả đã rõ: 17.000 ha đất được phục hóa, 33 tuyến kênh mương dài 74km được khơi thông, 94 nhà máy tại Khu công nghiệp Biên Hòa được khôi phục, hàng vạn công nhân trở lại làm việc. Đặc biệt, việc xây dựng và củng cố hệ thống tổ chức Đảng từ cơ sở đến cấp tỉnh được xem là nhiệm vụ hàng đầu, bởi lẽ “Đảng có mạnh thì dân mới vững niềm tin”.



Những thành công ban đầu trong việc ổn định cuộc sống đã tạo đà cho Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lần thứ II vào tháng 7-1979. Với 401 đại biểu đại diện cho hơn 8.000 đảng viên, Đại hội đã bầu Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa II gồm 43 ủy viên chính thức và 2 ủy viên dự khuyết. Đồng chí Lê Quang Chữ tiếp tục được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy.

Xác định năm 1979-1980 đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thành kế hoạch 5 năm (1976-1980), Đại hội đã đề ra nhiệm vụ chính trị trong hai năm này là: “Nâng cao tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường, thực sự phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, phát huy những thế mạnh của địa phương, ra sức xây dựng kinh tế, phát triển văn hóa, nhất là phát triển toàn diện, vượt bậc sản xuất nông nghiệp, ổn định và đảm bảo đời sống nhân dân; tăng cường quốc phòng an ninh Tổ quốc, làm tròn nghĩa vụ với tiền tuyến lớn, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật đáp ứng yêu cầu trước mắt, đồng thời chuẩn bị điều kiện phát triển những năm sau”.
Đại hội đề ra các chỉ tiêu sản lượng lương thực, khai hoang phục hóa, tổ chức đi xây dựng vùng kinh tế mới... Giá trị sản lượng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đạt 350 triệu đồng, kim ngạch xuất khẩu 140 triệu đồng.

Quán triệt Nghị quyết 21-NQ/TW tháng 8-1979 về phương hướng phát triển công nghiệp tiêu dùng và công nghiệp địa phương, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa II) đề ra Nghị quyết 79-NQ/TU về phương hướng phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và ngành tiểu thủ công nghiệp, xác định phải tập trung khai thác tốt nhất tiềm năng, nguyên liệu địa phương, tiềm năng lao động dồi dào, vận dụng các hình thức tổ chức sản xuất linh hoạt để phát triển tiểu thủ công nghiệp. Trong đó Khu công nghiệp Biên Hòa được coi là động lực tăng trưởng. Đây là quyết sách đúng đắn: đến cuối nhiệm kỳ, sản lượng lương thực tăng đều qua từng năm, cơ bản khắc phục được thiếu đói; Khu công nghiệp Biên Hòa trở thành một trong những điểm sáng của miền Nam về giá trị sản xuất.



Giai đoạn từ năm 1982-1985 là một thử thách lớn đối với cả nước nói chung và Đồng Nai nói riêng. Chính sách bao vây, cấm vận từ bên ngoài đã tạo ra nhiều rào cản kinh tế. Trước tình thế đó, Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III (với hai vòng họp) đã diễn ra trong bối cảnh đầy khó khăn.
Với sự tham gia của 423 đại biểu (vòng I) và 418 đại biểu (vòng II), Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 45 ủy viên chính thức và 1 ủy viên dự khuyết; 15 ủy viên vào Ban Thường vụ Tỉnh ủy; đồng chí Lê Quang Chữ tiếp tục được tín nhiệm bầu làm Bí thư Tỉnh ủy và đồng chí Nguyễn Văn Trung làm Phó Bí thư Tỉnh ủy. Đại hội cũng vinh dự được đón tiếp Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lê Duẩn về dự và phát biểu ý kiến chỉ đạo.


Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III đã tái khẳng định hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Trong giai đoạn này, Đảng bộ Đồng Nai đã thể hiện bản lĩnh vững vàng, linh hoạt trong chỉ đạo để duy trì và phát triển sản xuất. Các phong trào thi đua được phát động, các giải pháp sáng tạo được đề ra nhằm vượt qua khó khăn, đảm bảo an ninh lương thực. Sự ổn định trong công tác lãnh đạo với việc Bí thư Tỉnh ủy Lê Quang Chữ tiếp tục được bầu lại là một minh chứng cho sự tin tưởng của Đảng bộ vào những chủ trương đã đề ra.
Trong thập niên 1975-1985, Đảng bộ Đồng Nai đã chuyển từ vai trò lãnh đạo kháng chiến sang thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Đây là giai đoạn đầy thách thức và gian nan đối với Đảng bộ cũng như Nhân dân Đồng Nai. Dưới sự định hướng của Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV và V, Đảng bộ Đồng Nai đã phát huy tinh thần tự lực tự cường, không ngừng nỗ lực, dẫn dắt Nhân dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong bối cảnh đất nước vừa giành được hòa bình nhưng vẫn đối mặt với chiến tranh, sự bao vây cấm vận và vô vàn khó khăn.


Ba kỳ Đại hội đầu tiên đã khắc họa một giai đoạn lịch sử đầy ý chí và bản lĩnh của Đảng bộ Đồng Nai. Từ con số 6.810 đảng viên năm 1976 lên hơn 8.000 đảng viên năm 1979, không chỉ là sự tăng trưởng về số lượng mà còn là minh chứng cho sức lan tỏa, uy tín của Đảng trong lòng nhân dân. Mặc dù còn non trẻ về tổ chức và thiếu thốn về vật chất, những quyết sách của các kỳ Đại hội này đã tạo ra nền móng vững chắc, là tiền đề quan trọng để Đồng Nai trở thành một trong những cực tăng trưởng công nghiệp hàng đầu sau này. Câu nói “Đảng bộ tiên phong, nhân dân đồng lòng” chính là lời đúc kết xác đáng nhất về tinh thần của giai đoạn lịch sử này.

