Từ Minh Trị đến hải chiến Tsushima – Hành trình lột xác của Nhật Bản - Kỳ 1

Tháng 5/1905, tại eo biển Tsushima, hạm đội Nhật Bản đã nghiền nát hạm đội Baltic của Nga hoàng trong một trận hải chiến làm chấn động thế giới. Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, một quốc gia châu Á đánh bại cường quốc châu Âu bằng sức mạnh quân sự hiện đại, đặt ra câu hỏi lớn về sự trỗi dậy bất ngờ của Nhật Bản và bước ngoặt quyền lực toàn cầu.

TRẬN HẢI CHIẾN LỊCH SỬ NGA - NHẬT

Trận hải chiến Tsushima năm 1905 (tranh vẽ của Tōjō Shōtarō). Ảnh: Public Domain

Trận hải chiến Tsushima năm 1905 (tranh vẽ của Tōjō Shōtarō). Ảnh: Public Domain

Biển Nhật Bản cuối tháng 5/1905 tối sầm như báo hiệu một cơn giông chiến tranh. Những lớp sương lạnh lẽo phủ mờ mặt nước, trong khi xa xa, tiếng động cơ thép của hơn ba chục chiến hạm Nga hoàng đang chậm rãi rẽ sóng. Đó là Hạm đội Baltic khổng lồ – niềm kiêu hãnh của Đế quốc Nga, đã vượt nửa vòng trái đất để đến đây. Không ai trong số các thủy thủ Nga biết rằng, chỉ vài giờ nữa thôi, cả đội hình rực rỡ của họ sẽ bị xé nát bởi những phát đạn bậc thầy của một lực lượng mà thế giới phương Tây từng đánh giá là “man di”.

Vào lúc 13 giờ 55 phút ngày 27/5/1905, trong tiếng gió biển rít mạnh, lá cờ hiệu có hình chữ Z của Đô đốc Tōgō Heihachirō bỗng kéo lên trên boong soái hạm Mikasa. Một dòng chữ hiện ra: “Vận mệnh đế chế đặt trong trận đánh hôm nay. Mỗi binh sĩ hãy tận lực thực hiện nhiệm vụ".

Cùng lúc đó, từ trong làn khói mỏng, những khẩu pháo Nhật đồng loạt khai hỏa. Loạt đạn đầu tiên rơi xuống như những cây cột nước dựng đứng, rồi những tiếng nổ đanh gọn vang lên liên hồi. Người Nga sững sờ: hỏa lực bắn từ xa của Nhật không chỉ chính xác, mà còn nhanh đến mức khiến cả những sĩ quan Nga dày dạn kinh nghiệm nhất cũng không kịp trở tay.

Tranh vẽ Đô đốc Tōgō trên chiến hạm Mikasa vào thời điểm mở màn trận Tsushima.

Tranh vẽ Đô đốc Tōgō trên chiến hạm Mikasa vào thời điểm mở màn trận Tsushima.

Chỉ trong vài giờ, chiến trường Tsushima biến thành biển lửa. Oslyabya, một trong những thiết giáp hạm kiêu hãnh nhất của Nga, chìm xuống biển như một viên đá. Rồi đến Knyaz Suvorov – soái hạm của Đô đốc Rozhestvensky – trúng loạt đạn trực diện, khói đen bốc lên cuồn cuộn. Trước khi bóng tối buông xuống, biển Nhật Bản bị nhuộm màu bởi dầu loang, khói súng và những mảnh xác tàu.

Đêm hôm đó, 21 tàu khu trục và 45 tàu phóng ngư lôi Nhật Bản tiếp tục được điều động tấn công quân Nga. Quân Nhật tấn công trong ba giờ không ngừng nghỉ, hạm đội Nga bị phân tán thành từng nhóm nhỏ. Đến 23h00, dường như quân Nga đã biến mất, nhưng họ lại để lộ vị trí của mình cho những kẻ truy đuổi khi bật đèn pha tìm kiếm.

Soái hạm Knyaz Suvorov của Nga vào năm 1904. Con tàu đã bị đánh chìm trong trận Tsushima cùng với hầu hết thủy thủ đoàn.

Soái hạm Knyaz Suvorov của Nga vào năm 1904. Con tàu đã bị đánh chìm trong trận Tsushima cùng với hầu hết thủy thủ đoàn.

Đến rạng sáng hôm sau, thất bại của Nga hoàng đã trở thành điều không thể cứu vãn: gần như toàn bộ hạm đội Baltic bị tiêu diệt hoặc đầu hàng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, một quốc gia châu Á đánh bại một cường quốc châu Âu trên một chiến tuyến quy mô lớn – và chiến thắng ấy lại đến trong lĩnh vực hải quân - nơi kỹ thuật, công nghiệp và tư duy chiến lược được xem là thước đo văn minh tối thượng.

Châu Âu bàng hoàng. Các tờ báo lớn đồng loạt chạy tít: “Sự sụp đổ của ảo tưởng phương Tây”, “Nhật Bản – người khổng lồ mới ở phương Đông”. Nhưng câu hỏi lớn nhất lúc ấy là: Tại sao một đất nước phong kiến cô lập, còn nghèo đói và lạc hậu chỉ vài thập kỷ trước, lại có thể tạo ra một hạm đội đủ sức nghiền nát cường quốc Nga?

Câu trả lời đưa ta quay ngược thời gian, trở lại ngày 3/11/1852, khi một hoàng tử bé nhỏ chào đời tại dinh Satake ở Kyodo – đứa trẻ sau này sẽ thay đổi số phận Nhật Bản.

Tranh vẽ Thiên hoàng Minh Trị, 16 tuổi, trên đường di chuyển từ Kyoto tới Tokyo vào cuối năm 1868.

Tranh vẽ Thiên hoàng Minh Trị, 16 tuổi, trên đường di chuyển từ Kyoto tới Tokyo vào cuối năm 1868.

Khi Hoàng tử Mutsuhito – người sau này được biết đến với niên hiệu Minh Trị (Meiji) – cất tiếng khóc đầu tiên, nước Nhật vẫn đang chìm trong tĩnh lặng của thời Edo. Những lâu đài bằng gỗ, những samurai đeo hai thanh kiếm, những nông dân trồng lúa trên thửa ruộng nhỏ… tất cả tạo nên một xã hội biệt lập gần như hoàn toàn với thế giới bên ngoài. Trong hơn hai thế kỷ, chính quyền Mạc phủ Tokugawa đã khóa chặt đất nước trong chính sách sakoku – đóng cửa, nghiêm cấm giao thương, hạn chế tối đa ngoại nhân. Trong khi đó, châu Âu đã bước vào kỷ nguyên hơi nước, tàu sắt, súng trường nạp đạn nhanh; còn Nhật vẫn tin rằng kiếm samurai là biểu tượng tối thượng của sức mạnh.

Nhưng thế giới không đứng yên. Năm hoàng tử Mutsuhito mới một tuổi, năm 1853, bốn tàu chiến của Đô đốc Mỹ Matthew Perry lừng lững rẽ sóng Edo như những con quái vật thép. Tiếng đại bác thị uy làm rung chuyển cả triều đình Tokugawa. Người Nhật khi ấy lần đầu tiên thấy súng ống và tàu hơi nước phương Tây, và nhận ra rằng nếu không thay đổi, họ sẽ bị nghiền nát giống như số phận của Trung Quốc trong Chiến tranh Nha phiến. Đó là khoảnh khắc đánh thức nước Nhật khỏi giấc ngủ phong kiến.

Trong những năm thơ ấu, hoàng tử Mutsuhito sống trong giai đoạn chuyển mình đầy biến động ấy. Khi ông mới 14 tuổi, một cuộc nội chiến nổ ra giữa những lực lượng muốn duy trì trật tự cũ và những phiên trấn hùng mạnh muốn trả lại quyền lực cho Thiên hoàng để canh tân đất nước. Khi Mutsuhito lên ngôi năm 1867, cả nước Nhật nhìn vào hoàng đế thiếu niên như nhìn vào biểu tượng của tương lai. Nhưng không ai ngờ rằng chàng trai trẻ, với dáng người mảnh khảnh và đôi mắt thông minh, lại trở thành một trong những nhà lãnh đạo kiến tạo mạnh mẽ nhất châu Á thời hiện đại.

Thiên hoàng Minh Trị cưỡi ngựa, năm 1872. Ảnh: Public Domain

Thiên hoàng Minh Trị cưỡi ngựa, năm 1872. Ảnh: Public Domain

Cuộc Duy tân Minh Trị bắt đầu, và chính là từ quyết tâm của vị hoàng đế vừa bước sang tuổi trưởng thành. Chỉ trong vài thập kỷ Nhật Bản đã chuyển mình từ một xã hội nông nghiệp phong kiến thành cường quốc công nghiệp hóa. Các nhà máy đóng tàu, luyện thép, sản xuất súng ống mọc lên dọc bờ biển. Sinh viên Nhật được gửi sang Anh, Đức, Mỹ để học khoa học quân sự, kỹ sư, luật học, kinh tế.

Những sĩ quan như Tōgō Heihachirō – người sau này chỉ huy trận Tsushima – từng sống ở Anh nhiều năm để nghiên cứu chiến lược hải quân hiện đại. Nhật Bản bắt đầu xây dựng hạm đội theo chuẩn châu Âu, thậm chí mua chiến hạm từ Anh, nhưng điều quan trọng hơn là họ đã tạo ra tư duy chiến lược hoàn toàn mới: kết hợp kỷ luật của samurai và khoa học quân sự phương Tây.

Đến cuối thế kỷ 19, Minh Trị đã biến Nhật Bản thành một “con rồng” mới nổi, đủ sức đánh bại nhà Thanh trong Chiến tranh Giáp Ngọ năm 1894, giành quyền kiểm soát Triều Tiên và Đài Loan. Nhưng tất cả chỉ là khúc dạo đầu cho trận thử lửa lớn nhất: cuộc đối đầu với Nga – cường quốc rộng lớn nhất thế giới.

Chiến thắng Tsushima không chỉ là chiến thắng quân sự. Nó là lời tuyên bố rằng kỷ nguyên phương Tây thống trị tuyệt đối đã kết thúc.

Xem tiếp Kỳ cuối: Cuộc đại cải cách rung chuyển châu Á

Phan Long/Báo Tin tức và Dân tộc (Theo Naval History, Wikipedia)

Nguồn Tin Tức TTXVN: https://baotintuc.vn/ho-so/tu-minh-tri-den-hai-chien-tsushima-hanh-trinh-lot-xac-cua-nhat-ban-ky-1-20251213231829032.htm