Từ trái tim chuyển hóa thành hành động
Trong suốt chiều dài lịch sử, lòng yêu nước luôn là giá trị cốt lõi, động lực tinh thần to lớn hun đúc nên bản lĩnh, sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

Ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc tại Trường THPT Sơn Động số 2 (Bắc Ninh). Ảnh: NTCC
Bước vào giai đoạn phát triển mới với những vận hội, thách thức đan xen, yêu cầu giáo dục lòng yêu nước cho học sinh càng cấp thiết, đòi hỏi một cách tiếp cận mới, toàn diện, linh hoạt, phù hợp với đặc điểm của thời đại.
Yêu cầu trong bối cảnh mới
Chia sẻ điều này, bà Đào Thị Hường - Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Bắc Ninh cho rằng, trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy mạnh công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, chuyển đổi số toàn diện, lòng yêu nước không chỉ là niềm tự hào dân tộc, mà cần được cụ thể hóa bằng trách nhiệm công dân, hành động thiết thực, tư duy đổi mới và khát vọng cống hiến vì Việt Nam hùng cường, văn minh.
Đối với học sinh, giáo dục lòng yêu nước cần quan tâm để chuyển sang hành động cụ thể, đó là học tập tốt, sống có trách nhiệm, lý tưởng, sẵn sàng cống hiến, gắn chặt với mục tiêu hình thành phẩm chất công dân toàn cầu; yêu nước nhưng cũng tôn trọng sự khác biệt, có năng lực hội nhập và khát vọng vươn ra thế giới. Trong Chương trình GDPT 2018, yêu nước là một trong năm phẩm chất chủ đạo nhà trường phải bồi dưỡng cho học sinh.
Theo cô Bùi Minh Anh - giáo viên Trường THCS Trần Duy Hưng (Hà Nội), trước đây, cha ông ta yêu nước bằng cách cầm súng, ra trận, hy sinh xương máu để giữ lấy non sông. Hiện nay, đất nước đã yên bình, lòng yêu nước khoác lên hình hài khác: Sự chăm chỉ trong học tập, thái độ tử tế với công việc, sống có trách nhiệm và không quay lưng trước những điều sai trái quanh mình…
“Với tôi, giáo dục lòng yêu nước là làm sao để mỗi người, nhất là học sinh hiểu rằng đất nước không chỉ là tấm bản đồ hay bài học lịch sử, mà là chính cuộc sống hàng ngày quanh ta. Làm gì cũng nên nghĩ đến lợi ích chung, cộng đồng, danh dự dân tộc - đó là yêu nước.
Để nuôi dưỡng tình yêu nước, ngoài sách vở, chúng ta cần tạo nhiều cơ hội cho người trẻ được đi, nhìn, thực hành. Ví dụ, tham gia các hoạt động cộng đồng, đến địa danh lịch sử, gặp gỡ những người truyền cảm hứng. Khi được chạm tay vào thực tế, cảm xúc và nhận thức sẽ sâu sắc hơn”, cô Bùi Minh Anh chia sẻ.

Một giờ học lịch sử tại Trường Phổ thông liên cấp Phenikaa (Hà Nội). Ảnh: NTCC
Yêu nước từ bài học lịch sử
Lịch sử là môn khoa học có vai trò quan trọng trong giáo dục truyền thống, đạo đức, nhân cách cho người học. Tuy nhiên hiện nay, giáo dục lịch sử tồn tại một số hạn chế.
Phân tích của cô Nguyễn Thị Nga - giáo viên Trường THPT chuyên Nguyễn Trãi (Hải Phòng), giáo dục Lịch sử còn khô khan, nặng về ghi nhớ sự kiện. Việc dạy học nghiêng về mốc thời gian, sự kiện, nhân vật… khiến lịch sử bị rút gọn lại thành những dòng chữ khô cứng trong sách giáo khoa, mất đi chiều sâu tư duy lịch sử.
Học sinh biết “khi nào” nhưng không hiểu “tại sao”, không rút ra được hệ quả và giá trị đằng sau mỗi biến cố lịch sử, không hiểu được ý nghĩa nhân văn, bài học từ các sự kiện lịch sử. Bởi vậy, lịch sử trở nên nhàm chán, thiếu tính hấp dẫn và cảm xúc, chưa chạm được tới trái tim người học.
Phương pháp truyền đạt thụ động, lịch sử chưa thực sự trở thành một diễn đàn - nơi học sinh có thể tranh luận, đặt câu hỏi, khám phá, tự kiến tạo nhận thức của mình. Dạy học lịch sử vẫn chủ yếu trong khuôn viên trường học, thiếu các hình thức trải nghiệm thực tế. Vì thế, nhiều học sinh chưa thấy được mối liên hệ giữa lịch sử cha ông với cuộc sống hôm nay, tương lai của bản thân, cộng đồng, đất nước.
Thiếu những “khoảnh khắc chạm đến trái tim”, học sinh khó cảm được sự hy sinh của lớp người đi trước, vì thế càng khó “yêu” và trân trọng. Ứng dụng công nghệ trong giảng dạy còn hạn chế, trong khi đây là chìa khóa kết nối lịch sử với giới trẻ. Học sinh tiếp cận TikTok, YouTube, mạng xã hội mỗi ngày, nhưng nhiều tiết học lịch sử vẫn xa lạ với video, hình ảnh 3D, bảo tàng ảo hay trò chơi mô phỏng.
Giáo dục lòng yêu nước đôi khi còn hình thức, mang tính khẩu hiệu. Nhiều bài học, thông điệp mà giáo viên truyền tải chỉ dừng ở khẩu hiệu, truyền đạt một chiều, chưa chú trọng giúp học sinh trải nghiệm, thấu hiểu, đồng cảm một cách sâu sắc. Giáo viên dạy học sinh phải yêu nước, biết ơn và tự hào, nhưng chưa chú trọng giúp các em hiểu được vì sao phải yêu nước, yêu nước như thế nào trong thời đại ngày nay.
“Để giáo dục tinh thần yêu nước cho thế hệ trẻ, giáo dục nói chung, giáo dục lịch sử nói riêng có vai trò đặc biệt quan trọng”, cô Nguyễn Thị Nga khẳng định điều này và cho rằng: Tinh thần yêu nước không nên truyền đạt một chiều, áp đặt. Muốn vậy, phải thay đổi cách tiếp cận, dạy học, kể chuyện và làm sống lại lịch sử không chỉ bằng dữ kiện mà bằng trái tim, cảm xúc và con người thật, đưa lịch sử “bước ra từ trang sách”.
Thay vì chỉ thông tin những sự kiện lịch sử khô khan, hãy tổ chức hoạt động trải nghiệm, ngoại khóa để học sinh kết nối với di sản và nhân chứng lịch sử; tổ chức hoạt động trải nghiệm học qua nhập vai; tổ chức các dự án học tập về chủ đề yêu nước (các cuộc thi lịch sử, làm phim ngắn/ tập san/ triển lãm…). Khi các em được “sống” trong lịch sử, niềm tự hào dân tộc và tinh thần yêu nước sẽ nảy nở tự nhiên, không còn là khẩu hiệu áp đặt.
Liên hệ lịch sử với các vấn đề thời sự để học sinh có cái nhìn thực tế, đa chiều. Từ đó, giúp các em thấy yêu nước không chỉ là chuyện đánh giặc giữ nước trong quá khứ, sách vở, yêu nước còn là việc giữ gìn văn hóa, sử dụng tiếng Việt đúng mực, ứng xử văn minh trên mạng xã hội, sống tử tế, trách nhiệm với cộng đồng, là nỗ lực học tập, khát vọng cống hiến cho đất nước…
Tích hợp công nghệ trong dạy học lịch sử mạnh mẽ hơn: Sử dụng video, podcast, bảo tàng ảo, game lịch sử, áp dụng mô hình STEAM… để tạo trải nghiệm hấp dẫn, truyền cảm hứng bằng hình ảnh và âm thanh sống động hơn, để học sinh được “sống trong lịch sử”, không chỉ “học về lịch sử”. Từ đó, đưa lịch sử đến gần người học, chạm đến trái tim người học…
Xây dựng văn hóa học đường gắn với giá trị yêu nước: Duy trì nghi lễ chào cờ đầu tuần gắn với kể chuyện lịch sử; treo tranh ảnh anh hùng dân tộc hoặc các khẩu hiệu truyền cảm hứng trong lớp; lồng ghép tinh thần yêu nước vào các môn học khác: Văn học, Giáo dục công dân, Mỹ thuật...
Quan trọng nhất là vai trò của người thầy trong truyền cảm hứng. Người thầy không thể truyền lửa nếu trong mình không có lửa. Thầy cô là người quan trọng nhất có thể biến lịch sử thành những câu chuyện có thật, sống động, truyền cảm. Chỉ khi người thầy truyền lửa yêu nước bằng trái tim, học trò mới có thể yêu nước bằng cả tâm hồn.

Học sinh Trường THPT Yên Dũng số 2 (Bắc Ninh) trải nghiệm “Tết sum vầy”. Ảnh: NTCC
Triển khai đồng bộ giải pháp
TS Trương Trung Phương - Trưởng phòng Quản lý người học - Thư viện, nguyên Trưởng khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng) nhận định: Những năm gần đây, công tác giáo dục lòng yêu nước trong học sinh, sinh viên có nhiều chuyển biến tích cực cả về nhận thức, tư duy, hành động thực tiễn.
Nhiều mô hình, cách làm hay được triển khai, đặc biệt là sự đổi mới trong cách tiếp cận, kết hợp linh hoạt giữa chuyển đổi số, hoạt động trải nghiệm thực tế và giáo dục giá trị sống. Từ đó góp phần làm hoạt động này gần gũi, sống động, phù hợp hơn với giới trẻ trong bối cảnh mới. Tuy nhiên, để phát huy hiệu quả lâu dài và tính lan tỏa bền vững của những mô hình, cần quan tâm một số nội dung trọng tâm.
Thứ nhất, giáo dục lòng yêu nước từ việc khơi dậy lòng tự hào: Lịch sử dân tộc, con người Việt Nam; bản sắc văn hóa Việt Nam; thành tựu phát triển và vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Từ đó, hình thành ý thức trách nhiệm, hành động thiết thực trong học sinh, sinh viên.
Thứ hai, đánh giá sâu hiệu quả thực tế của các mô hình đã triển khai, chú trọng đánh giá về tác động nhận thức, hành vi của học sinh, sinh viên, thay vì chỉ dừng lại ở việc kiểm đếm số lượng hoạt động. Qua đó xác định mô hình nào thực sự có ý nghĩa, tạo ảnh hưởng bền vững, giúp học sinh, sinh viên hình thành động lực tự thân và cụ thể để tiếp tục nhân rộng; đồng thời dần loại bỏ hoạt động mang tính hình thức, nặng về phong trào, thiếu chiều sâu cảm xúc.
Thứ ba, ứng dụng chuyển đổi số, mạng xã hội để khơi dậy cảm xúc, hành động chủ động. Học sinh, sinh viên ngày nay không chỉ tiếp nhận thông tin mà còn có nhu cầu tự thể hiện quan điểm, cảm xúc, trách nhiệm. Do đó, cần khuyến khích các em sáng tạo sản phẩm truyền thông yêu nước qua video, bài viết, tranh ảnh… đăng tải trên nền tảng số.
Tổ chức các sân chơi, cuộc thi sáng tạo nội dung số nhằm thu hút sự tham gia rộng rãi của học sinh, sinh viên. Xây dựng không gian sáng tạo số trong trường học; tổ chức huấn luyện kỹ năng số và kỹ năng truyền thông tích cực cho học sinh, sinh viên; tạo cơ chế ghi nhận, tôn vinh những sản phẩm thể hiện tình yêu quê hương đất nước.
Thứ tư, công tác giáo dục lòng yêu nước trong bối cảnh đất nước và thế giới có nhiều biến động cần bảo đảm tính bền vững, phù hợp và an toàn thông qua các kênh chính thống để học sinh, sinh viên có môi trường thể hiện; tránh tình trạng cực đoan, dễ bị lôi kéo bởi thông tin xấu độc.
Thứ năm, định hướng nhận thức cho học sinh, sinh viên về lòng yêu nước không chỉ giới hạn ở lịch sử - truyền thống quá khứ, mà còn bao gồm các hoạt động thiết thực ở hiện tại như: Bảo vệ môi trường, khởi nghiệp vì cộng đồng, bảo vệ bản quyền số,…
Những hoạt động này cần gắn với đặc thù đối tượng, vùng miền sẽ giúp học sinh, sinh viên cảm nhận được mỗi hành động dù nhỏ cũng là biểu hiện của lòng yêu nước.
Cũng đề xuất giải pháp, bà Đào Thị Hường - Phó Giám đốc Sở GD&ĐT Bắc Ninh nhấn mạnh, đầu tiên là đổi mới nội dung, phương pháp giáo dục lòng yêu nước. Lòng yêu nước cần lồng ghép tự nhiên, có chiều sâu trong các môn học: Lịch sử, Địa lí, Ngữ văn, Giáo dục công dân, các hoạt động trải nghiệm, hướng nghiệp, dự án học tập. Cần khơi gợi tình cảm yêu quê hương, đất nước qua những câu chuyện, hình ảnh, nhân vật thật, từ đó truyền cảm hứng và nuôi dưỡng lý tưởng sống cao đẹp cho học sinh.
Cùng đó, đa dạng hóa hình thức tổ chức hoạt động; đặc biệt, tăng cường các hoạt động ứng dụng công nghệ, sản phẩm số, bài học trực tuyến về chủ quyền biển đảo, bảo vệ môi trường, truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc… phù hợp với tâm lý học sinh trong thời đại số.
Đẩy mạnh chuyển đổi số trong giáo dục giá trị sống, lý tưởng sống. Học sinh có thể được giao nhiệm vụ sáng tạo sản phẩm truyền thông thể hiện tình yêu quê hương, văn hóa dân tộc thông qua các dự án tích hợp liên môn. Cũng cần phát huy vai trò nêu gương, dẫn dắt của thầy cô giáo và tăng cường phối hợp nhà trường, gia đình, xã hội trong giáo dục lòng yêu nước.
“Có thể nói, giáo dục lòng yêu nước không chỉ là nhiệm vụ giáo dục tư tưởng, đạo đức mà còn là một phần quan trọng của chiến lược phát triển nguồn nhân lực quốc gia. Một thế hệ học sinh biết yêu nước đúng đắn, thiết thực, có tư duy phản biện, bản lĩnh hội nhập, khát vọng vươn cao, chính là nền móng cho Việt Nam phát triển bền vững, có bản sắc và vị thế trên trường quốc tế”, bà Đào Thị Hường cho hay.
“Hiện nay, vấn đề cốt lõi trong giáo dục lòng yêu nước là chuyển hóa cảm xúc thành hành động thực tiễn, bền vững và lan tỏa. Vì vậy, bên cạnh việc tiếp tục khơi dậy lòng yêu nước, cần chú trọng đầu tư vào những mô hình sáng tạo, truyền cảm hứng, đồng thời kết nối mạnh mẽ giữa nhà trường - gia đình - xã hội - công nghệ để giúp thế hệ trẻ không chỉ yêu nước bằng trái tim, mà còn thể hiện qua những việc làm cụ thể, thiết thực vì đất nước hôm nay và mai sau”. - TS Trương Trung Phương, Trưởng phòng Quản lý người học - Thư viện, nguyên Trưởng khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm (Đại học Đà Nẵng)
Nguồn GD&TĐ: https://giaoducthoidai.vn/tu-trai-tim-chuyen-hoa-thanh-hanh-dong-post746611.html