Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận và vận dụng trong Quân đội nhân dân Việt Nam hiện nay
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: 'Lực lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công'. Công tác dân vận trong quân đội là một bộ phận công tác vận động quần chúng của Đảng, là yêu cầu hàng đầu của quân đội trong thực hiện chức năng đội quân công tác - một trong những chức năng phản ánh bản chất cách mạng, truyền thống tốt đẹp của Quân đội anh hùng; là một trong những nhân tố quan trọng góp phần xây dựng và củng cố mối quan hệ đoàn kết, gắn bó máu thịt quân - dân, xây dựng 'thế trận lòng dân' vững chắc.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về dân vận
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân, để thực hành những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và Đoàn thể đã giao cho. Dân vận không thể chỉ dùng báo chương, sách vở, mít tinh, khẩu hiệu, truyền đơn, chỉ thị mà đủ.
Trước nhất là phải tìm mọi cách giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng: Việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được. Điểm thứ hai là bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương, rồi động viên và tổ chức toàn dân ra thi hành. Trong lúc thi hành phải theo dõi, giúp đỡ, đôn đốc, khuyến khích dân. Khi thi hành xong phải cùng với dân kiểm thảo lại công việc, rút kinh nghiệm, phê bình, khen thưởng”[1].
Ngắn gọn, hàm súc, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác dân vận thể hiện rõ quan điểm của Người về mục đích, đối tượng, phương cách thực hành công tác dân vận thế nào sao cho có hiệu quả cao.
Ai là dân, nhân dân, ai làm dân vận?
Hồ Chí Minh đã chỉ rõ đối tượng để vận động là dân, nhân dân. Dân, nhân dân trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh có nội hàm rất rộng, vừa là một tập hợp đông đảo quần chúng, vừa là mỗi con người Việt Nam cụ thể. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, dân, nhân dân là “Mọi con dân nước Việt”, “Mỗi một con Rồng cháu Tiên”, không phân biệt dân tộc, tín ngưỡng, “già, trẻ gái trai, giàu nghèo, quý tiện”.
Như vậy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, công việc vận động nhân dân là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị, của toàn thể cán bộ, đảng viên và những người hiểu biết được công việc trong dân. Hễ là người Việt Nam yêu nước thì đều có trách nhiệm tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia làm những việc ích quốc, lợi dân. Đó là trách nhiệm của mỗi công dân đối với Tổ quốc của mình và đối với chính mình. Bởi lẽ, xây dựng một xã hội của dân, vì dân thì lực lượng phải là toàn dân. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, mục tiêu của công tác dân vận là thực hiện cho kỳ được công cuộc kiến thiết nước nhà và bảo vệ Tổ quốc. Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ”[2].
Vì sao phải vận động nhân dân?
Theo Người: “Trong công cuộc kháng chiến kiến quốc, lực lượng chính là ở dân”[3]. “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân. Trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân”[4]. Khi nước ta đang dưới ách nô dịch của thực dân phương Tây, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ ra: “Cách mệnh là việc chung cả dân chúng chứ không phải việc một hai người”. Khi nói về nguyên nhân làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, Người đã tổng kết: “Nhất là vì lực lượng của cuộc toàn dân đoàn kết. Tất cả các dân tộc, các giai cấp, các địa phương, các tôn giáo đều nổi dậy theo lá cờ Việt Minh để tranh lại quyền độc lập cho Tổ quốc”[5].
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Dễ mười lần không dân cũng chịu, khó trăm lần dân liệu cũng xong". Lực lượng toàn dân là lực lượng vĩ đại hơn hết. Không ai chiến thắng được lực lượng đó. Xuất phát từ quan điểm ấy, Người đã tha thiết kêu gọi tất cả những người thật thà yêu nước, không phân biệt tầng lớp nào, tín ngưỡng nào; chúng ta hãy thật thà cộng tác vì dân vì nước. Người căn dặn: “chúng ta cần phải xóa bỏ hết thành kiến, cần phải thật thà đoàn kết với nhau, giúp đỡ lẫn nhau để cùng tiến bộ, để cùng phục vụ nhân dân”[6]. Như vậy, lực lượng làm nên thành bại của cách mạng, thành công của công cuộc kiến thiết nước nhà đi tới ấm no, hạnh phúc và bảo vệ vững chắc chủ quyền, độc lập, thống nhất Tổ quốc, toàn vẹn lãnh thổ trong mọi thời đại, mọi hoàn cảnh chính là dân, nhân dân.
Về vai trò của nhân dân?
Khi vận động nhân dân, Người lưu ý, cần xác định rõ vị trí, vai trò của từng thành tố trong nó, chỉ có như vậy lực lượng của dân, nhân dân mới thành một tổ chức vững mạnh được. Người viết: “Lực lượng chủ yếu trong khối đoàn kết dân tộc là công nông, cho nên liên minh công nông là nền tảng của Mặt trận dân tộc thống nhất”[7]. Sau này, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, nền tảng đại đoàn kết dân tộc là liên minh công - nông - lao động trí óc.
Khi nói về Đảng Cộng sản Việt Nam trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là của giai cấp công nhân, vừa là của nhân dân lao động và của cả dân tộc. Muốn vận động được dân, nhân dân, cả dân tộc, Đảng phải: Vừa là đạo đức, vừa là văn minh; Đảng Cộng sản phải tiêu biểu cho trí tuệ, danh dự, lương tâm của dân tộc và thời đại; Đảng phải thực sự đoàn kết nhất trí; được nhân dân thừa nhận. Người viết: Đảng không thể đòi hỏi Mặt trận thừa nhận quyền lãnh đạo của mình, mà phải tỏ ra là một bộ phận trung thành nhất, hoạt động nhất và chân thành nhất. Chỉ trong đấu tranh và công tác hằng ngày, khi quần chúng rộng rãi thừa nhận chính sách đúng đắn và năng lực lãnh đạo của Đảng, thì Đảng mới giành được địa vị lãnh đạo.
Muốn dân vận có kết quả thực tế, bên cạnh nội dung và phương pháp tuyên truyền, vận động thì đòi hỏi đạo đức, năng lực của mỗi đảng viên, cán bộ phải ngang tầm. Phải làm gương trong sáng, không vun vén cho riêng mình, coi lợi ích cho dân là lợi ích cho mình, sống được dân yêu thương, quý trọng; phải chăm lo bồi dưỡng để năng lực lãnh đạo không ngừng được nâng cao, phải xứng đáng tiên phong trong mọi công việc, ngang tầm với đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng, giải quyết tốt những vấn đề thuộc về trách nhiệm của người cán bộ, đảng viên, lãnh đạo, quản lý. Dân, nhân dân trọng đức, nể tài đảng viên, cán bộ là nguyên nhân căn bản làm nên thành công của công tác dân vận.
Phạm vi vận động nhân dân?
Trong thời đại xóa bỏ mọi áp bức bóc lột, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu luận điểm “con đỉa hai vòi”. Những người cách mạng chỉ có thể xóa bỏ tận gốc mọi áp bức, nô dịch, bất công một khi phải đồng thời cắt bỏ cả hai cái vòi ấy. Chỉ có như vậy mới xóa bỏ tận gốc chủ nghĩa đế quốc ở cả chính quốc và thuộc địa. Nếu chỉ cắt một vòi thôi thì cái vòi kia sẽ lại mọc ra. Sự nghiệp cách mạng vô sản là từ mỗi quốc gia mở ra toàn thế giới. Vì thế, một trong những chuẩn mực đạo đức cao cả của người cách mạng mà Hồ Chí Minh đã nêu là có tinh thần quốc tế trong sáng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nêu khẩu hiệu: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, Thành công, thành công, đại thành công”.
Người chỉ rõ, yêu nước chân chính phải gắn liền với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân. Điều kiện để làm cách mạng vô sản: Cách mệnh trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi. Người luôn luôn khẳng định: Cách mạng Việt Nam là một bộ phận của cách mạng thế giới. Cách mạng Việt Nam chỉ giành được thắng lợi khi đoàn kết chặt chẽ với phong trào cách mạng thế giới. Như vậy, muốn có được mặt trận đoàn kết toàn thế giới của những người yêu nước, ghét áp bức bóc lột, yêu chuộng tự do, bình đẳng trong nhân loại phải tiến hành tuyên truyền vận động không chỉ nhân dân trong nước mà còn tất cả nhân dân thế giới.
Phương pháp dân vận
Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, việc đầu tiên của công tác dân vận là phải tìm mọi cách tuyên truyền, giải thích cho mỗi một người dân hiểu rõ ràng, việc đó là lợi ích cho họ và nhiệm vụ của họ, họ phải hăng hái làm cho kỳ được.
Vì vậy, Người yêu cầu người làm dân vận phải giải thích cho quần chúng nhân dân hiểu được việc đảng, đoàn thể, vận động họ làm là có lợi cho họ và là nhiệm vụ của họ, họ phải hăng say thực hiện. Mục đích của những người cộng sản chân chính vận động nhân dân làm cách mạng nhằm mang lại lợi ích cho nhân dân. Song, để nhân dân một lòng đi theo Đảng, khi mà những lợi ích đối với họ chưa có ngay trước mắt mà phải đương đầu với gian khổ, tù tội, hy sinh, mất mát thì cần phải dân vận để nhân dân hiểu, thấy được lợi ích lâu dài của sự hy sinh, gian khổ khi làm cách mạng mà dấn thân theo Đảng. Hiểu và thấy được lợi ích chính đáng mà họ được thụ hưởng khi cách mạng thành công thì chắc chắn họ sẽ nhất tề theo Đảng, xả thân vì sự nghiệp của họ, do họ và vì họ. Thực tế cách mạng nước ta hơn 90 năm dưới ngọn cờ của Đảng đã minh chứng, một khi đường lối đúng, dân vận khéo, cán bộ tận tụy, trong sáng vì dân vì nước thì nhân dân theo Đảng, bảo vệ Đảng, cách mạng thành công.
Quân đội nhân dân Việt Nam quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận trong tình hình mới
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta về công tác dân vận, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam đã ban hành nhiều nghị quyết và chỉ thị quan trọng về công tác này. Công tác dân vận của quân đội đã góp phần xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, “thế trận lòng dân”, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa, tham gia giúp nhân dân phát triển kinh tế với hàng nghìn chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện các cuộc vận động, phong trào, chính sách an sinh xã hội và chính sách hậu phương quân đội. Trong phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn, quân đội luôn ở tuyến đầu, thực sự là lực lượng nòng cốt, xung kích, có mặt kịp thời ở những nơi xảy ra thiên tai, dịch bệnh, không quản hiểm nguy, giúp đỡ nhân dân khắc phục hậu quả, ổn định cuộc sống. Những việc làm nghĩa tình đó làm cho hình ảnh “Bộ đội Cụ Hồ” - Bộ đội của dân luôn tỏa sáng trong lòng nhân dân.
Nổi bật là cán bộ, chiến sĩ Quân đội không quản ngại hy sinh, gian khổ, luôn dũng cảm đi đầu và là lực lượng nòng cốt trong giúp đỡ nhân dân phòng, tránh, khắc phục hậu quả thiên tai. Từ thực tiễn tiến hành công tác dân vận, toàn quân đã xây dựng được nhiều mô hình, cách làm sáng tạo, như: “Hành quân dã ngoại làm công tác dân vận”; “Xóa một hộ đói, giảm một hộ nghèo”, “Hũ gạo vì người nghèo” của Quân khu 5; Chương trình “Mái ấm cho người nghèo nơi biên giới, hải đảo”, “Ngân hàng bò”, “Nâng bước em đến trường” của Bộ đội Biên phòng; “Cảnh sát biển đồng hành với ngư dân” của lực lượng Cảnh sát biển.... Qua đó, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân, tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc, đoàn kết Quân - Dân.
Tuy nhiên, trong quá trình tiến hành, vẫn còn một số cấp ủy, chỉ huy đơn vị chưa nhận thức sâu sắc về vị trí, vai trò, tầm quan trọng của công tác dân vận; chưa chủ động đổi mới nội dung, hình thức, phương thức hoạt động cho phù hợp với từng đối tượng và địa bàn. Sự phối hợp hoạt động giữa các tổ chức, cơ quan, đơn vị trong thực hiện có nội dung chưa sát, chưa kịp thời, nhất là trong việc nắm, trao đổi thông tin, dự báo tình hình, xử lý các vụ việc phức tạp.
Bên cạnh đó, các thế lực thù địch triệt để lợi dụng vấn đề “dân tộc”, “tôn giáo”, “dân chủ”, “nhân quyền”, những sơ hở, thiếu sót của ta để xuyên tạc, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, tình đoàn kết quân - dân, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, “phi chính trị hóa” Quân đội. Tình hình đó, đòi hỏi các đơn vị trong toàn quân phải tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận, góp phần củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và Quân đội, tăng cường mối đoàn kết gắn bó máu thịt Quân - Dân, thực hiện “Quân với Dân một ý chí”. Để đạt hiệu quả cao, các đơn vị cần thực hiện tốt một số nhiệm vụ, giải pháp chính sau:
Một là, tiếp tục quán triệt và thực hiện nghiêm chỉ thị, nghị quyết của Đảng về công tác dân vận, trọng tâm là Nghị quyết 25-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương (khóa XI) và Nghị quyết 49-NQ/QUTW của Quân ủy Trung ương về “Tăng cường, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới”. Các đơn vị cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho cán bộ, chiến sĩ về vị trí, vai trò của công tác dân vận; phát huy tính tiền phong, gương mẫu, tác phong công tác của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, chỉ huy các cấp, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và trách nhiệm trong tiến hành công tác dân vận. Đồng thời, đẩy mạnh phong trào Thi đua “Dân vận khéo” gắn với phong trào Thi đua Quyết thắng của Quân đội, phong trào Thi đua yêu nước của địa phương và các phong trào, cuộc vận động do Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các ban, bộ, ngành phát động; nhân rộng các nhân tố mới, “điển hình tiên tiến”, gương “người tốt, việc tốt” trong công tác dân vận.
Hai là, chủ động tham mưu đề xuất, nâng cao hiệu quả công tác dân vận trên các địa bàn, trong các nhiệm vụ, hướng mạnh về cơ sở, tích cực nghiên cứu giải pháp giải quyết hiệu quả những vấn đề mới nảy sinh. Trước hết, cần tham mưu, chỉ đạo đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp công tác dân vận trong vùng đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất; tích cực tham gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh, “thế trận lòng dân” vững chắc, góp phần xây dựng khu vực phòng thủ vững mạnh, đặc biệt là vùng biên giới, biển, đảo của Tổ quốc. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu bổ sung phát triển lý luận công tác dân vận của Quân đội trong điều kiện mới. Trong quá trình tiến hành, công tác dân vận phải hướng mạnh về cơ sở, sâu sát với đời sống của đồng bào; chủ động phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương, tổ chức chính trị - xã hội và các lực lượng trên địa bàn nắm chắc tình hình, trao đổi thông tin, huy động sức mạnh tổng hợp để tiến hành công tác dân vận có hiệu quả. Cơ quan quân sự địa phương phát huy vai trò tham mưu cho cấp ủy, chính quyền và là trung tâm phối hợp với các lực lượng trong thực hiện công tác dân vận.
Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm của cấp ủy, chính ủy (chính trị viên), người chỉ huy, cơ quan chính trị các cấp trong lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân vận. Các cấp ủy cần bổ sung, sửa đổi quy chế làm việc, quy chế lãnh đạo sát với chức năng, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mình; làm tốt việc phân công cấp ủy viên phụ trách công tác dân vận; gắn kết quả công tác dân vận với đánh giá, phân loại tổ chức đảng, đảng viên và bình xét thi đua, khen thưởng hằng năm. Chính ủy (chính trị viên) là người chủ trì, chịu trách nhiệm trước cấp ủy và người chỉ huy cấp trên, cấp ủy cấp mình về lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện công tác dân vận, nên phải thường xuyên kiểm tra, giám sát, phát hiện, ngăn chặn kịp thời những biểu hiện sai trái, lệch lạc trong quá trình thực hiện. Người chỉ huy chủ động xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện nghị quyết; rà soát, sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện các quy chế, quy định về điều hành, xử lý công việc gắn với đổi mới phương pháp, tác phong công tác, thực hiện nghiêm chế độ làm việc. Cơ quan chính trị các cấp thực hiện tốt việc tham mưu giúp cấp ủy, chỉ huy và hướng dẫn thực hiện kế hoạch, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng, nhân rộng điển hình công tác dân vận; khắc phục các biểu hiện xem nhẹ công tác dân vận, coi đó là việc của cơ quan chính trị và cán bộ dân vận chuyên trách.
Bốn là, thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố, kiện toàn cơ quan dân vận vững mạnh, có đủ số lượng, chất lượng tốt. Chú trọng giáo dục, rèn luyện nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức, lối sống, trình độ, năng lực, kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và phương pháp tác phong công tác để người làm công tác dân vận có trách nhiệm cao, thực sự nhiệt huyết, hiểu biết, gần gũi, yêu quý nhân dân, hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân. Cùng với đó, cần làm tốt việc lựa chọn cán bộ vào cơ quan dân vận các cấp; quan tâm đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực, trình độ và kỹ năng nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, cán bộ tăng cường cơ sở, các tổ công tác dân vận và cán bộ, chiến sĩ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đồng thời, có chính sách đãi ngộ phù hợp đối với cán bộ, nhất là cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển đảo, địa bàn trọng điểm về quốc phòng - an ninh, tạo điều kiện thuận lợi để họ yên tâm gắn bó xây dựng đơn vị.
Năm là, cấp ủy, chỉ huy các cấp trong toàn quân tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện tốt Kết luận 120-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở” và Chỉ thị 590-CT/ĐUQSTW của Đảng ủy Quân sự Trung ương (nay là Quân ủy Trung ương) về “Tiếp tục đẩy mạnh xây dựng và thực hiện Quy chế Dân chủ cơ sở trong Quân đội”. Thường xuyên đổi mới tác phong công tác, sâu sát cơ sở, coi trọng đối thoại dân chủ, kịp thời giải quyết vướng mắc từ cơ sở, tạo sự đoàn kết, thống nhất trong đơn vị. Phát huy vai trò của các tổ chức quần chúng và Hội đồng quân nhân trong việc tham gia ý kiến, hiến kế và bàn biện pháp thực hiện hiệu quả nghị quyết của cấp ủy, chỉ thị, mệnh lệnh của người chỉ huy đối với công tác dân vận.
Nâng cao hiệu quả công tác dân vận là nhiệm vụ hết sức quan trọng của Quân đội, nhất là trong tình hình hiện nay. Thực hiện tốt công tác này, làm cho mối quan hệ đoàn kết Quân - Dân ngày càng bền vững, bảo đảm cho Quân đội luôn dựa vào dân, phát huy vai trò nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc, hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.
[1] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tập 6, tr.232-233.
[2]Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.244.
[3] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 5, tr.501.
[4] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 10, tr.453.
[5] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 4, tr.18.
[6] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 9, tr.144.
[7] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Sđd, tập 12, tr.417.