Từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 đến tinh thần Điện Biên Phủ hôm nay
Trên Quảng trường Ba Đình lịch sử của Thủ đô Hà Nội, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, xóa bỏ ách thống trị hơn 80 năm của thực dân và nền quân chủ chuyên chế tồn tại hàng nghìn năm để thành lập nên chế độ cộng hòa - dân chủ, tạo bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử của dân tộc Việt Nam. Tuyên ngôn Độc lập 1945 đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt đến hôm nay và mãi mai sau.
Mở đầu Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 tuyên bố trước toàn thể quốc dân và thế giới, Chủ tịch Hồ Chí Minh từ ghi nhận một chân lý bất hủ trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ về quyền con người được sống, được tự do và mưu cầu hạnh phúc, đi đến khẳng định một chân lý mới của thời đại là: “Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Có độc lập, tự do, thì sẽ có tất cả. Như vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từ việc khẳng định yêu cầu của thời đại về nhân quyền, tự do, bình đẳng, bác ái để đi đến khẳng định khát vọng cháy bỏng và vô cùng thiêng liêng của nhân dân Việt Nam, đó là độc lập cho dân tộc, tự do cho người dân.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định giá trị của độc lập, tự do mà nhân dân Việt Nam đã phải hy sinh biết bao xương máu mới giành lại được và Người đã nêu cao quyết tâm chiến đấu bảo vệ và giữ vững quyền thiêng liêng đó của dân tộc. Đây được coi là chân lý hiển nhiên, “là những lẽ phải không ai chối cãi được”, là điều bất di bất dịch của mỗi con người cũng như của mỗi dân tộc. Đó là quyền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn trên tất cả các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội, ngoại giao, về chủ quyền quốc gia và toàn vẹn lãnh thổ. Nền độc lập thực sự, độc lập hoàn toàn phải được thực hiện một cách triệt để theo nguyên tắc: Nước Việt Nam của người Việt Nam, mọi vấn đề thuộc về chủ quyền quốc gia phải do nhân dân Việt Nam tự giải quyết, không có sự can thiệp của nước ngoài. Độc lập đó phải được thể hiện bằng cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân, “ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Khi khởi thảo dòng đầu tiên của Tuyên ngôn Độc lập, tại ngôi nhà số 48, phố Hàng Ngang, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết trong niềm sung sướng, tự hào tột độ. Sau này, Người kể lại rằng: Trong đời mình, chưa bao giờ Người lại cảm thấy xúc động và phấn khởi như trong những giờ phút ấy. Tuyên ngôn Độc lập đã nói lên ý chí của hàng triệu đồng bào cả nước, đã thể hiện thành quả của mấy mươi năm đấu tranh anh dũng của nhân dân Việt Nam cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, mà đỉnh cao của cuộc đấu tranh đó là Tổng khởi nghĩa Tháng Tám năm 1945 thắng lợi, đem lại cho dân tộc Việt Nam quyền độc lập, tự do.
Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập trở thành mốc son trong tiến trình lịch sử dân tộc Việt Nam và trở thành động lực to lớn cho cuộc đấu tranh của nhân dân các dân tộc thuộc địa và phụ thuộc trên thế giới vì tự do, độc lập. Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định với thế giới thành quả của cuộc cách mạng dân tộc điển hình trong thế kỷ XX, có ý nghĩa dân tộc và quốc tế sâu sắc. 80 năm trôi qua, thời gian càng lùi xa, thì những giá trị cao quý đó vẫn tiếp tục soi đường cho sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế của dân tộc Việt Nam ngày nay.
Trải qua gần 40 năm đổi mới toàn diện, phát huy tinh thần Cách mạng Tháng Tám và Tuyên ngôn Độc lập, kết hợp sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, sức mạnh tổng hợp của quốc gia đã tăng lên rất nhiều, “chưa bao giờ đất nước ta có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”, tạo ra thế và lực mới cho đất nước tiếp tục đi lên với những triển vọng tốt đẹp.
Trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay, tư tưởng đó vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy đất nước phát triển phồn vinh, hạnh phúc, như ước nguyện sinh thời của Người.

Trung tâm phường Điện Biên Phủ trên đà phát triển. Ảnh: Mai Giáp
Từ thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám và việc ra đời của bản Tuyên ngôn Độc lập đến Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 là bài học có ý nghĩa vô cùng quan trọng để Đảng bộ, chính quyền và nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên kế thừa và tiếp tục vận dụng, bám sát thực tiễn trong giai đoạn xây dựng và phát triển địa phương hiện nay.
Từ Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 đến tinh thần Điện Biên Phủ ngày hôm nay là minh chứng hùng hồn của tinh thần dám nghĩ, dám làm; là bản lĩnh, trí tuệ và sự đoàn kết của một dân tộc không khuất phục trước bất kỳ thế lực xâm lược nào. Đó là một trong những minh chứng sống động nhất cho chân lý: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Và hôm nay, tinh thần ấy vẫn hiện hữu trong mỗi bước đi phát triển của Điện Biên và đất nước.
Để thực hiện mục tiêu tổng quát năm 2025: “Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tập trung huy động nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng, đô thị, dịch vụ đồng bộ theo hướng hiện đại; tập trung đẩy mạnh tiến độ thực hiện, giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công. Tiếp tục nâng cao năng lực, hiệu lực, hiệu quả hoạt động, quản lý, điều hành của chính quyền các cấp, các ngành. Quan tâm phát triển toàn diện, đồng bộ các lĩnh vực văn hóa, xã hội, giáo dục, y tế ngang tầm với phát triển kinh tế; chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, giảm nghèo bền vững, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; bảo tồn, phát huy giá trị bản sắc văn hóa các dân tộc và di tích lịch sử quốc gia đặc biệt Chiến trường Điện Biên Phủ. Quản lý chặt chẽ, sử dụng hiệu quả đất đai, tài nguyên, chủ động phòng, chống thiên tai, ứng phó với biến đổi khí hậu. Giữ vững ổn định chính trị, tăng cường tiềm lực quốc phòng - an ninh, bảo đảm trật tự an toàn xã hội; nâng cao hiệu quả đối ngoại. Phấn đấu cơ bản hoàn thành và vượt các chỉ tiêu phát triển kinh tế - xã hội 5 năm giai đoạn 2021 - 2025 đã đề ra”, các cấp, các ngành, cán bộ, chiến sĩ và nhân dân các dân tộc tỉnh Điện Biên tiếp tục phát huy truyền thống yêu nước, nâng cao ý chí tự lực, tự cường, phấn đấu thực hiện thắng lợi các mục tiêu đã đề ra, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ năm 2025, tạo bước đệm vững chắc cho giai đoạn tiếp theo.