Tục thờ cúng Bàn Vương của người Dao
Người Dao ở Tuyên Quang có 9 ngành: Dao Đại Bản, Dao Tiền, Thanh Y, Quần Trắng, Lô Gang, Coóc Mùn, Quần Chẹt, Áo Dài và Dao Đỏ. Mỗi ngành Dao có sự khác biệt nhất định về trang phục, tín ngưỡng… Thế nhưng các nhánh Dao lại có một điểm chung đó là tín ngưỡng thờ cúng Bàn Vương.
Theo truyền thuyết, Bàn Vương vốn là Long Khuyển Hồ, nhờ lập được công lao to lớn giết được Cao Vương (xâm lược nước Bình Vương) nên được vua Bình Vương trọng thưởng và gả công chúa cho. Vợ chồng Bàn Hồ (Bàn Vương) sinh được 12 người con (6 trai, 6 gái) đều được vua Bình Vương ban sắc thành 12 họ (Bàn, Lam, Mãn, Uyển, Đặng, Triệu, Lương, Tống, Phượng, Đối, Lưu, Lý) như các dòng họ khác của người Dao ngày nay. Khi vua Bình Vương chết, Bàn Vương lên làm Vua. Tuy vậy, Bàn Vương vẫn giữ nếp sống giản dị, dạy người dao cách trồng lúa, dệt vải…. Sau khi Bàn Vương qua đời, người Dao tổ chức thờ cúng trên bàn thờ tổ tiên và lễ cúng Bàn Vương.
Bàn Vương được coi là Thủy Tổ của các dòng họ người Dao nên cũng được coi là loài ma nhà (ma tốt). Bàn Vương được thờ cúng với gia tiên và 5 vị thần khác là thần thóc gạo, thần văn nghệ, thần săn bắn và 2 vị thần chăn nuôi. Trong các nghi lễ lớn như cấp sắc, đồng bào người Dao đều phải cúng Bàn Vương.
Trước khi làm lễ cúng Bàn Vương, nếu gia đình có người gặp chuyện chẳng lành (con cái ốm đau, làm ăn thất bát…) người Dao sẽ soạn một mâm lễ “giải hạn”, cầu xin Bàn Vương phù trợ cho tai qua nạn khỏi. Trong khi cúng, gia chủ phải hứa với Bàn Vương: khi nào làm ăn khấm khá sẽ làm lễ cúng chính thức. Nghi thức này được gọi là “lễ khuất” (xin khất).
Mâm lễ cúng tổ, ngoài các đồ hương khói thông thường, nhất thiết phải có một đôi “lợn thần” và hai chĩnh “rượu thần”. Sau khi ấn định ngày, gia chủ mời 3 thầy cúng về nhà chủ trì buổi lễ. Các thầy cúng lập 2 đàn (một đàn cao hơn dành cho Bàn Vương, đàn còn lại cúng gia tiên). Mỗi đàn có một con lợn (làm sạch, bỏ lòng), gạo, bạc trắng (9 đồng), một chén nước, một chai rượu (chắt từ hai vò “rượu thần”), 5 cái chén, 5 cái bát và 5 đôi đũa.
Lễ cúng Bàn Vương trước đây thường diễn ra trong 3 ngày 3 đêm, ngày nay được rút ngắn những vẫn giữ được sự linh thiêng và giá trị nhân văn. Trong lễ cúng, thầy cúng thực hiện các nghi thức mời Bàn Vương về chứng giám lòng thành của gia chủ và “đọc lại” các sự tích của Bàn Vương, từ khi được phong “Vương” đến lúc đẻ ra 12 người con rồi tỏa đi khắp mọi nơi lập họ, khai phá đất đai. Kết thúc lễ, thầy cúng đốt tiền ma, tiễn đưa Bàn Vương về lại quê cha đất tổ.
Người Dao coi việc thờ cúng Bàn Vương là một việc làm có liên quan đến vận mệnh của mỗi người, mỗi dòng họ và của cả dân tộc. Vì vậy, bất cứ nhóm Dao nào cũng đều chú trọng đến việc thờ cúng này. Đây là nghi lễ mang đậm tính nhân văn vì nó hướng con người luôn nhớ đến nguồn cội và con người luôn được trấn an tinh thần bởi bên cạnh mình đã có tổ tiên là Bàn Vương linh thiêng phù hộ độ trì. Nghi lễ này còn là sợi dây liên kết cộng đồng trong mối quan hệ dòng họ, làng bản.