Từng bước kiện toàn hệ thống tổ chức làm công tác dân số
Từng bước kiện toàn hệ thống tổ chức làm công tác dân số tuyến tỉnh, huyện, tuyến xã trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW số 19-NQ/TW và số 21-NQ/TW về công tác dân số trong tình hình mới sẽ góp phần tận dụng giai đoạn dân số vàng của Việt Nam.
Vào thời điểm 0 giờ ngày 1/4/2019, tổng số dân của Việt Nam là 96.208.984 người, trong đó dân số nam là 47.881.061 người (chiếm 49,8%) và dân số nữ là 48.327.923 người (chiếm 50,2%). Với kết quả này, Việt Nam là quốc gia đông dân thứ 15 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á (sau In-đô-nê-xi-a và Phi-li-pin). So với năm 2009, vị trí xếp hạng về quy mô dân số của Việt Nam trong khu vực Đông Nam Á không thay đổi và giảm hai bậc so với các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới.
Con số này đã nói lên sự thành công của công tác Dân số - Kế hoạch hóa gia đình (DS- KHHGĐ) trong thời gian vừa qua. Việt Nam đã bước vào giai đoạn nhân khẩu học mới từ năm 2007 - giai đoạn dân số vàng. Đây là một cơ hội có một không hai trong lịch sử nhân khẩu học, nếu chúng ta tận dụng tốt chắc chắn rằng Việt Nam sẽ sớm hội nhập vào các nước phát triển trên thế giới.
Đây cũng là những nội dung Bs. Mai Xuân Phương, Phó Vụ trưởng Vụ Truyền thông-Giáo dục, Tổng cục Dân số, Bộ Y tế chia sẻ với Tạp chí Tuyên giáo về vấn đề dân số vàng của Việt Nam hiện nay.
PV: Ngày 1/4/2019, dân số Việt Nam qua làm tròn số là 96,2 triệu người. Con số này có ý nghĩa như thế nào đối với người làm công tác DS và Phát triển (DS&PT)?
Bs Mai Xuân Phương: Thời khắc 0h00 ngày 1/4/2019 qua báo cáo bước đầu Dân số Việt Nam đã đạt tới con số trên 96,2 triệu dân. Con số này đã đi vào lịch sử phát triển dân số học và cũng như lịch sử phát triển của dân tộc Việt Nam. Sự kiện này đã mở ra rất nhiều cơ hội, vận hội mới cho đất nước ta.
Với các nhà toán học, 96,2 triệu đơn giản chỉ là một con số, nhưng với những người làm công tác dân số, con số đó có ý nghĩa vô cùng quan trọng.
Những dự báo trước đó hoàn toàn có cơ sở khi chúng ta có một so sánh đáng chú ý là: năm 1989, dân số Philippines ít hơn nước ta 6 triệu người, nhưng đến nay, dân số Philippines nhiều hơn nước ta 15 triệu người. Nếu như Việt Nam không nỗ lực làm công tác DS-KHHGĐ như thời gian vừa qua thì dân số nước ta hiện nay sẽ là 110,8 triệu người. Như vậy, trong vòng hơn 20 năm qua, nước ta đã tránh sinh được 20,8 triệu trường hợp. Đây là một thắng lợi hết sức to lớn của chương trình DS&PT, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh tế - xã hội đất nước.
PV: Việt Nam đang ở thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Điều đó mang đến rất nhiều cơ hội cho Việt Nam nhưng cũng có không ít những thách thức, khó khăn. Ông có thể nói rõ hơn về vấn đề này?
Bs Mai Xuân Phương: Từ năm 2007, Việt Nam chính thức bước vào thời kỳ cơ cấu “dân số vàng”. Đây là cơ hội có một không hai trong lịch sử phát triển nhân khẩu học của bất cứ quốc gia nào trên thế giới. Với hơn 67 triệu người trong độ tuổi lao động (chiếm 69% tổng dân số), Việt Nam đang có một nguồn nhân lực khổng lồ đáp ứng nhu cầu cho công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, cho sự chấn hưng và phát triển của dân tộc. Chúng ta đang có rất nhiều cơ hội lớn để liên kết quốc gia, khu vực trong chuỗi giá trị toàn cầu. Với 96,2 triệu người, dân số nước ta đứng thứ 15 trên thế giới và thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Điều đó cho thấy, Việt Nam là một thị trường rất lớn, rất tiềm năng với 96,2 triệu người tiêu dùng, đủ hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài đến với Việt Nam. Như vậy, nền kinh tế của chúng ta sẽ ngày càng hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới và ngày càng khẳng định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Tuy nhiên, chúng ta cũng còn rất nhiều những khó khăn, thách thức. Lực lượng lao động của Việt Nam đông nhưng trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng quản lý còn hạn chế. Theo Tổng Điều tra năm 2009 của Tổng cụ Thống kê, trong nhóm dân số từ 15 tuổi trở lên, mới có 13,7% được đào tạo chuyên môn kỹ thuật (từ sơ cấp đến đại học). Số người có trình độ đại học và trên đại học chỉ chiếm 4,4%. Vì vậy, nguồn nhân lực rất dồi dào, nhưng lao động có tay nghề cao lại quá thiếu.
Nếu theo cách phân loại của UNESCO, tỷ lệ dân số Việt Nam từ 25 tuổi trở lên có trình độ học vấn bậc trung là 18,9%. Tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều so với một số nước trong khu vực như Nhật Bản 43,9%, Hàn Quốc 40,4%, Singapore 39,2% và Philippines 26,4%. Nếu ở trình độ học vấn bậc cao thì Việt Nam chỉ có 5,4%, trong khi Nhật Bản là 30%, Hàn Quốc 23,4%, Singapore 19,6%, Philippines 8,4%.
Lực lượng lao động ngày một gia tăng nhưng có được việc làm cho toàn bộ lực lượng đó hay không đang là thách thức lớn đối với Việt Nam. Giai đoạn 1999 - 2009 tỷ lệ thất nghiệp trung bình là khoảng 4,5%. Tình trạng thiếu việc làm có xu hướng tăng lên, đặc biệt ở nhóm lao động không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, ở khu vực nông thôn. Tỷ lệ lao động nông nghiệp của nước ta còn cao trong khi diện tích đất nông nghiệp ngày càng thu hẹp do mức độ chuyển đổi mục đích sử dụng và đô thị hóa.
Lao động di cư thanh niên tăng nhanh, trong khi các chính sách lao động, việc làm và các dịch vụ xã hội liên quan còn nhiều bất cập. Các dòng di cư cũng tạo nên những biến động về lực lượng lao động và áp lực việc làm ở cả nơi đi, nơi đến như thiếu hụt lực lượng lao động chính tại nơi đi, gia tăng các áp lực về việc làm, tỷ lệ thất nghiệp tại nơi đến. Ngoài ra, các dòng di cư cũng tạo nên những áp lực rất lớn về nhu cầu nhà ở, cơ sở hạ tầng, môi trường, dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe sinh sản, KHHGĐ ở nơi đến mà chủ yếu là tại các đô thị, các khu công nghiệp, khu chế xuất.
Như vậy, hiện nay, Việt Nam mới chỉ có “vàng” về số lượng, “vàng” về cơ cấu tuổi và muốn có được “vàng thật”, chúng ta cần phải nâng cao chất lượng của “vàng”.
PV: Vậy giải pháp nào để khắc phục vấn đề này, thưa ông?
Bs Mai Xuân Phương: Như trên đã phân tích, vấn đề hiện nay là làm thế nào để có thể tận dụng cơ hội lớn lao và hiếm hoi này vào phát triển kinh tế đất nước.
Nhiều nghiên cứu gần đây cho thấy, cơ hội “dân số vàng” đóng góp khoảng 1/3 cho tăng trưởng kinh tế ở một số nước. Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore đã tận dụng tốt cơ hội nhân khẩu học này, làm nền tảng cho tăng trưởng kinh tế một cách ngoạn mục và trở thành những “con rồng châu Á”. Kinh nghiệm cũng cho thấy mấu chốt để phát huy được cơ cấu “dân số vàng” là phải có nguồn nhân lực chất lượng cao.
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020 và tầm nhìn 2030 của Việt Nam đã xác định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng dụng khoa học, công nghệ”. Để làm được này, chúng ta cần có các giải pháp tổng thể đa ngành, đa lĩnh vực như về lao động, việc làm, về giáo dục đào tạo, về đầu tư và khuyến khích đầu tư, về dân số và chăm sóc y tế…
Có thể nêu một số giải pháp như: tăng cơ hội việc làm, hướng đến những việc làm tạo giá trị gia tăng cao, tăng năng suất lao động; đa dạng hóa ngành nghề, đặc biệt tại khu vực nông thôn, các ngành có sử dụng nhiều lao động; thực hiện chính sách xuất khẩu lao động để đảm bảo tạo việc làm và tăng thu nhập, từng bước nâng cao chất lượng lực lượng lao động xuất khẩu; mở rộng, nâng cao chất lượng đào tạo nghề theo nhu cầu thị trường lao động. Tạo điều kiện tiếp cận cơ hội đào tạo nghề cho phụ nữ; đầu tư nguồn lực, nâng cao chất lượng giáo dục, đặc biệt là ở vùng sâu, vùng xa, vùng khó khăn; triển khai triệt để quan điểm “giáo dục và đào tạo cùng khoa học công nghệ là quốc sách hàng đầu” để từ đó nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, một trong ba trụ cột đã được Đại hội Đảng lần thứ XII đề ra, nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế; Có chính sách đầu tư và tái đầu tư cho phát triển, đặc biệt là cho phát triển con người, trước hết là sự nghiệp giáo dục, y tế, dân số.
Đối với ngành dân số, cần duy trì vững chắc mức sinh thay thế lý nhằm kéo dài thời gian cơ cấu “dân số vàng”, làm chậm lại quá trình “già hóa dân số”; cung cấp đầy đủ, kịp thời, thuận tiện và có chất lượng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, KHHGĐ cho phụ nữ, vị thành niên/thanh niên, người di cư…
Những giải pháp tổng thể đa nghành, đa lĩnh vực sẽ giúp cho Việt Nam tận dụng tối đa trí tuệ, sức lao động và tạo ra khối lượng của cải vật chất khổng lồ, làm tăng thu nhập bình quân đầu người, tạo ra giá trị tích lũy lớn cho tương lai, đảm bảo an sinh xã hội.
PV: Mô hình đưa Trung tâm DS - KHHGĐ về Trung tâm Y tế đa chức năng cấp quận huyện cũng như việc điều chỉnh chức năng nhiệm vụ và vị trí công việc của viên chức dân số và các cộng tác viên dân số cấp xã đang có rất nhiều bất cập tại đa số các địa phương, dưới góc độ quản lý nhà nước, ông có thể cho biết mô hình này có gây xáo trộn về tổ chức, làm giảm biên chế và kinh phí hay không. Trên cơ sở đó, ông có kiến nghị gì không ?
Bs Mai Xuân Phương: Như chúng ta đã biết, thực hiện Nghị quyết 19/NQ-TW, Trung tâm Dân số đã và đang sáp nhập vào Trung tâm Y tế.
Cho đến nay, theo báo cáo chưa đầy đủ của các tỉnh/Thành phố, số viên chức làm việc tại Trung tâm DS-KHHGĐ sau khi sáp nhập thành /khoa/phòng dân số thuộc Trung tâm Y tế tổng số chỉ tiêu biên chế được giao là 3.993 viên chức. Tổng số viên chức hiện có là 3.683 người, số đã được tuyển dụng là 3.438 đã giảm 427 viên chức so với trước khi thực hiện Nghị quyết số 19-NQ/TW.
Đã có 45 tỉnh đã sáp nhập Trung tâm Dân số vào Trung tâm Y tế; 16 tỉnh đã và đang xây dựng đề án cũng như quyết định sáp nhập các Trung tâm dân số vào trung tâm Y tế;
2 tỉnh chưa có chủ trương sáp nhập: Phú Thọ và TP. Hồ Chí Minh.
Trong khi đó, tại cấp xã, mô hình tổ chức bộ máy, hầu hết các tỉnh viên chức dân số xã thuộc Trạm Y tế xã quản lý trực thuộc Trung tâm Y tế.
Còn 11 tỉnh/thành phố còn lại vẫn giữ mô hình cán bộ không chuyên trách về công tác DS&PT gồm: Bắc Kạn, Cao Bằng, Nam Định, Hưng Yên, Hà Giang, Thanh Hóa, Hà Tĩnh, Quảng Ngãi, Phú Yên, Trà Vinh, TP HCM; riêng thành phố Hồ Chí Minh, cán bộ DS xã là cán bộ không chuyên trách cấp xã.
Tổng số cộng tác viên (CTV) dân số là 163.686 người, giảm 11.161 người so với năm trước là (174.847 người).
Đặc điểm nổi bật của đội ngũ CTV là rất nhiều nơi bố trí kiêm nhiệm công tác khác (chiếm 65%). Đây là những người đang làm các công việc khác và có hưởng lương hoặc phụ cấp từ công việc đó. Số CTV không kiêm nhiệm chỉ chiếm 35%. Trong số các CTV kiêm nhiệm, đa số là cán bộ y tế thôn bản (44%) và cán bộ phụ nữ (37%).
Với những con số và phân tích trên cả nước nói trên chắc chắn sẽ không thể không ảnh hưởng đến việc tổ chức và thực hiện kém phần hiệu quả về công tác DS&PT trong tình hình mới.
Vì vậy, chúng tôi thiết nghĩ trên cơ sở từng bước kiện toàn hệ thống tổ chức làm công tác DS tuyến tỉnh, huyện, tuyến xã trong thời gian tới theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW số 19-NQ/TW và số 21-NQ/TW (về công tác dân số trong tình hình mới) của Hội nghị lần thứ 6 Ban chấp hành Trung Ương khóa XII, chúng tôi đang đề nghị Bộ Y tế, Bộ Nội vụ và các địa phương trong thời gian tới mô hình tổ chức đối với địa phương như sau:
Tại cấp tỉnh, giữ nguyên bộ máy Chi cục DS-KHHGĐ trực thuộc Sở Y tế.
Tại cấp huyện, mô hình tổ chức cấp huyện trong thời gian tới vừa phải đảm bảo tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy, chính quyền địa phương ở cơ sở với công tác dân số, vừa đảm bảo sự quản lý tinh gọn, thống nhất về công tác dân số khi sáp nhập vào hệ thống y tế và trong tiến trình cải cách hành chính, tinh giản tổ chức, cán bộ hiện nay.
Tại cấp xã, những nơi đã tuyển dụng viên chức dân số xã, giao cho Trạm Y tế xã quản lý điều hành. Những nơi chưa tuyển dụng viên chức dân số xã thì giao cho viên chức trạm y tế thực hiện công tác dân số hoặc bố trí cán bộ không chuyên trách làm công tác DS-KHHGĐ; khi chuyển cho Trạm Y tế quản lý thì cần giao nhiệm vụ cho Trạm Y tế xã thực hiện công tác DS-KHHGĐ.
Với cộng tác viên dân số thôn, bản, tham mưu cho cấp có thẩm quyền, bố trí kinh phí để duy trì ổn định đội ngũ cộng tác viên dân số ở cơ sở; Bộ Y tế cần sớm ban hành Thông tư Hỗ trợ chính sách đối với CTV dân số thôn bản, tổ dân phố;
Khuyến khích cộng tác viên dân số kiêm cộng tác viên các ngành hoạt động tương đồng. Có như vậy, công tác DS&PT mới khắc phục những tồn đọng và tiếp tục phát huy các kết quả đã đạt được trong tình hình mới./.
PV: Xin cảm ơn ông!
Thanh Xuân (thực hiện)