Tuyên ngôn Độc lập - Những giá trị lịch sử

Với thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, ngày 2/9/1945 tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập lịch sử do chính Người chuẩn bị, trịnh trọng tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của một nhà nước mới: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

 Mít tinh tại Nhà hát lớn Hà Nội trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ảnh: TL

Mít tinh tại Nhà hát lớn Hà Nội trong Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Ảnh: TL

74 năm trước, dưới sự lãnh đạo đúng đắn và sáng tạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân cả nước đã nhất tề đứng lên làm Cách mạng Tháng Tám thành công, giành chính quyền trong cả nước. Hơn 2/3 thế kỉ đã qua đi, nhiều chi tiết nội dung trong “Tuyên ngôn” đã được nghiên cứu làm sáng tỏ trên nhiều lĩnh vực, chúng ta càng thấy rõ những tư tưởng vĩ đại, tầm nhìn chiến lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trong Tuyên ngôn Độc lập.

Bản Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 không chỉ khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà còn là văn bản pháp lí đặt cơ sở cho việc khẳng định thiết lập nhà nước pháp quyền ở Việt Nam, với mục tiêu Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, khơi nguồn sáng tạo và soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới trong sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Hơn thế nữa, Tuyên ngôn Độc lập còn đóng góp cơ sở lí luận và thực tiễn cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, là sự mở đầu kỉ nguyên độc lập, tự do của các dân tộc thuộc địa, bị áp bức trên toàn thế giới. Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử, một văn bản pháp lí quan trọng bậc nhất của nước Việt Nam, là một cột mốc lịch sử, chấm dứt giai đoạn mất nước và sống kiếp nô lệ của dân tộc ta.

Với hệ thống lập luận chặt chẽ, lí lẽ sắc bén với giọng văn hùng hồn, một cơ sở pháp lí vững chắc khẳng định mạnh mẽ chủ quyền quốc gia của dân tộc Việt Nam trước toàn thế giới, mở ra thời kì mới của dân tộc ta trên con đường phát triển. Bản đồ thế giới phải sửa đổi lại vì sự ra đời của một nhà nước mới: Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Tuyên ngôn Độc lập là một văn kiện lịch sử đã được các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực nghiên cứu, làm rõ nhưng cho đến nay vẫn còn có người khi đọc văn bản lịch sử này đã đặt ra câu hỏi: Vì sao Chủ tịch Hồ Chí Minh lại mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập bằng những câu trích dẫn từ hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và Pháp. Điều này có phần nào đúng nhưng chưa đủ, trong cách hiểu và lí giải của vấn đề. Đúng vì mở đầu bản Tuyên ngôn, Chủ tịch Hồ Chí Minh viết:

“Hỡi đồng bào cả nước,

Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”. Lời bất hủ ấy ở trong bản Tuyên ngôn Độc lập năm 1776 của nước Mỹ. Bản Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền của Cách mạng Pháp năm 1791 cũng nói: Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi; và phải luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi. Đó là những lẽ phải không ai chối cãi được”…

Đây là điều cần được lí giải sâu sắc trên cơ sở thực tiễn và khoa học.

Trước hết, cần phải hiểu rằng: Chủ tịch Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới như UNESCO đã tôn vinh, Người nhắc đến hai văn kiện lịch sử ấy với lòng trân trọng đặc biệt của một trí tuệ lớn đối với sự phát triển của văn minh nhân loại mà cách mạng giành độc lập của Hoa Kỳ năm 1776 và Cách mạng tư sản Pháp 1789 đã thể hiện. Đây là những thành quả văn hóa của nhân loại, là dấu mốc lớn trong tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại, trong đó đã khẳng đinh những quyền cơ bản của con người, đó là “quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”… Đây là những tư tưởng rất tiến bộ đã được khẳng định trong hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp.

Hai là, trên cơ sở và tiền đề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng chính cuộc cách mạng mà dân tộc Việt Nam đã giành được vào Tháng Tám năm 1945 là bước đi tiếp trong sự phát triển của nhân loại, đồng thời cũng là một cột mốc cho sự phát triển của lịch sử giải phóng con người thuộc các dân tộc bị áp bức, bóc lột. Vì đó là mẫu hình đầu tiên và cũng là ngọn cờ đầu của cuộc đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa thoát khỏi ách đô hộ, thống trị của chủ nghĩa thực dân cũ và mới mà cách mạng Việt Nam do Đảng Cộng sản và Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo đã gương cao.

Ba là, đi sâu nghiên cứu hai bản Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp, chúng ta thấy: Cả hai bản Tuyên ngôn đã đề cao và khẳng định quyền con người “mọi người đều sinh ra bình đẳng”, từ những tiền đề đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã suy rộng ra, câu ấy có ý nghĩa là: Tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng, dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Chính sự suy rộng ra đã thể hiện một tư tưởng lớn, một luận điểm quan trọng thể hiện sự vượt trội của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được trình bày trong Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam. Đây là một nội dung rất căn bản, có ý nghĩa không chỉ đối với dân tộc ta mà còn có ý nghĩa sâu sắc đối với thời đại. Từ đó tới nay, các nước trên thế giới đã và đang liên tục đấu tranh để giành độc lập, giành quyền dân tộc cơ bản của mình.

Như vậy, có thể thấy với thiên tài của trí tuệ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dịch và trích dẫn Tuyên ngôn của nước Mỹ và nước Pháp nhưng có sự điều chỉnh và phát triển để thể hiện quan điểm riêng của mình về quyền con người và trên thực tế đã được thể hiện và khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp của Việt Nam từ trước đến nay. Đó chính là sự đóng góp về lí luận và thực tiễn về quyền con người đem lại những tiến bộ và phù hợp với sự phát triển của nhân loại. Bản Tuyên ngôn Độc lập đã khẳng định quyết tâm: “Vì những lẽ trên chúng tôi, Chính phủ lâm thời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trịnh trọng tuyên bố với thế giới rằng: Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”…

Hơn 74 năm đã trôi qua, tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Tuyên ngôn Độc lập ngày 2/9/1945 đã trở thành sức mạnh to lớn của toàn dân tộc Việt Nam vượt qua mọi khó khăn thách thức, đã và đang khơi nguồn sáng tạo, soi sáng con đường cách mạng Việt Nam hướng lên tầm cao mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong thời kì phát triển mới.

TS. Vũ Ngọc Am

Nguồn Quảng Trị: http://www.baoquangtri.vn/default.aspx?tabid=71&modid=415&itemid=141891