UBTVQH xem xét dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án
Dưới sự điều hành của Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu, tại phiên họp thứ 41 diễn ra vào ngày 10/1, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về các vấn đề còn ý kiến khác nhau của dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án.
Dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án đã được Quốc hội thảo luận tại kỳ họp thứ 8.
Ngay sau kỳ họp, thực hiện nhiệm vụ được Ủy ban Thường vụ Quốc hội giao, Thường trực Ủy ban Tư pháp đã phối hợp với Cơ quan chủ trì soạn thảo (Tòa án nhân dân Tối cao) và các cơ quan hữu quan tích cực nghiên cứu đầy đủ ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội để tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện một bước dự thảo Luật.
Luật này quy định phạm vi, nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về hòa giải, đối thoại tại Tòa án; quyền, nghĩa vụ của Hòa giải viên, Đối thoại viên, các bên tham gia hòa giải, đối thoại; trách nhiệm của Tòa án đối với công tác hòa giải, đối thoại; trình tự, thủ tục hòa giải, đối thoại; công nhận kết quả hòa giải thành, đối thoại thành tại Tòa án.
Hòa giải, đối thoại theo quy định tại dự luật được thực hiện đối với các tranh chấp dân sự, hôn nhân và gia đình, kinh doanh, thương mại, lao động, yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, khiếu kiện hành chính thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án theo quy định của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu Tòa án giải quyết vụ việc dân sự, vụ án hành chính và các bên không phản đối hòa giải, đối thoại tại Tòa án trước khi Tòa án thụ lý, giải quyết vụ việc.
Luật này không điều chỉnh và không loại trừ các hoạt động hòa giải, đối thoại đã được luật khác quy định. Đồng thời có các quy định về nhiệm vụ giải quyết hiệu quả các tranh chấp, khiếu kiện trên cơ sở tôn trọng quyền tự định đoạt của cơ quan, tổ chức, cá nhân; bảo đảm giá trị pháp lý, hiệu lực thi hành kết quả hòa giải, đối thoại; góp phần hàn gắn những bất đồng, rạn nứt, ngăn ngừa các tranh chấp, khiếu kiện trong tương lai, tạo sự đồng thuận, xây dựng khối đoàn kết trong nhân dân; tiết kiệm chi phí của Nhà nước, tổ chức, cá nhân.
Báo cáo về một số vấn đề lớn của dự án Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án của Ủy ban Tư pháp cho biết, về phạm vi hoạt động của Hòa giải viên, đa số ý kiến Ủy ban Tư pháp và Cơ quan chủ trì soạn thảo tán thành việc mở rộng phạm vi hoạt động của Hòa giải viên, theo đó, ngoài hoạt động tại Tòa án nơi Hòa giải viên được bổ nhiệm, Hòa giải viên có thể hoạt động tại Tòa án khác nhưng phải trong phạm vi địa giới hành chính của Tòa án cấp tỉnh.
Quy định như vậy tạo điều kiện tốt hơn để đương sự lựa chọn được Hòa giải viên mà họ tín nhiệm. Đồng thời, với phạm vi hoạt động của Hòa giải viên trong một đơn vị cấp tỉnh, thì Tòa án vẫn có điều kiện đánh giá, giám sát chặt chẽ chất lượng Hòa giải viên và kịp thời đề nghị Chánh án có thẩm quyền miễn nhiệm những Hòa giải viên không đáp ứng yêu cầu công việc.
Tuy nhiên, vẫn có một số ý kiến đề nghị cân nhắc nên giữ lại như quy định của dự thảo Luật đã được Tòa án nhân dân tối cao trình Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8, theo đó các bên được lựa chọn Hòa giải viên trong danh sách Hòa giải viên của Tòa án có thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự, khiếu kiện hành chính.
Theo quy định này thì phạm vi hoạt động của Hòa giải viên giới hạn trong phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án, bảo đảm mối liên hệ chặt chẽ giữa Hòa giải viên với Tòa án nơi Hòa giải viên làm việc, đề cao trách nhiệm quản lý của Tòa án đối với Hòa giải viên và tạo điều kiện cho Hòa giải viên thực hiện tốt nhiệm vụ.
Về chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án, dự thảo Luật không quy định việc Nhà nước thu chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án đối với các đương sự. Thường trực Ủy ban Tư pháp và Cơ quan chủ trì soạn thảo cho rằng, do đây là phương thức giải quyết tranh chấp mới, vì vậy trước mắt Nhà nước chưa nên thu chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án để khuyến khích người dân lựa chọn.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, dự thảo Luật chỉnh lý theo hướng: Đa số các trường hợp Nhà nước không thu chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án; Nhà nước chỉ thu chi phí hòa giải, đối thoại tại Tòa án với 3 trường hợp: Pháp nhân, cá nhân nộp đơn yêu cầu giải quyết tranh chấp về kinh doanh, thương mại có giá ngạch. Chi phí phát sinh khi tiến hành hòa giải, đối thoại trong trường hợp các bên thống nhất hòa giải, đối thoại ngoài trụ sở Tòa án. Chi phí phiên dịch tiếng nước ngoài. Vì đây là những hoạt động phát sinh lợi nhuận hoặc thường là các khoản chi lớn, các bên có trách nhiệm chia sẻ một phần để giảm chi cho ngân sách nhà nước. Mức thu, trình tự, thủ tục thu, nộp do Chính phủ quy định chi tiết.
Sau khi nghe các ý kiến phát biểu đối với dự án luật, kết luận nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu nhấn mạnh, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cơ bản tán thành với các nội dung về một số vấn đề lớn trong báo cáo của Ủy ban tư pháp, riêng vấn đề về mở rộng phạm vi hoạt động của Hòa giải viên cần xem xét, nghiên cứu kỹ lưỡng.
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu đề nghị Cơ quan soạn thảo và Cơ quan thẩm tra tiếp thu nghiêm túc, đầy đủ ý kiến tại Phiên họp để hoàn chỉnh dự án Luật trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội xem xét, quyết định./.