Ứng dụng công nghệ thông minh, chuyển đổi số trong quản lý biên giới, cửa khẩu

Trong bối cảnh chuyển đổi số quốc gia đang được đẩy mạnh, việc ứng dụng công nghệ thông minh vào quản lý, kiểm soát tại các cửa khẩu, biên giới trở thành xu thế tất yếu. BĐBP đang từng bước hiện đại hóa, số hóa quy trình nghiệp vụ, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý Nhà nước, tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại và bảo đảm an ninh trật tự khu vực biên giới. Phóng viên Báo Biên phòng đã có cuộc trao đổi với Đại tá Phan Hữu Tiếp, Phó Cục trưởng Cục Cửa khẩu BĐBP xung quanh vấn đề này.

Cán bộ Đồn Biên phòng cửa khẩu Lý Vạn, BĐBP tỉnh Cao Bằng kiểm soát hành khách XNC qua cửa khẩu trên nền tảng kỹ thuật số. Ảnh: Thanh Tùng

Cán bộ Đồn Biên phòng cửa khẩu Lý Vạn, BĐBP tỉnh Cao Bằng kiểm soát hành khách XNC qua cửa khẩu trên nền tảng kỹ thuật số. Ảnh: Thanh Tùng

- Thưa đồng chí, trước xu thế chuyển đổi số mạnh mẽ, BĐBP đã áp dụng những nền tảng, phần mềm hay giải pháp công nghệ thông minh nào trong công tác kiểm soát người, phương tiện qua cửa khẩu?

- Thực hiện chủ trương lớn của Đảng, Nhà nước về chuyển đổi số quốc gia theo Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị và Quyết định số 749/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, BĐBP đã xác định việc ứng dụng công nghệ thông minh vào công tác quản lý, kiểm soát cửa khẩu, biên giới là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên và cấp bách.

Là lực lượng nòng cốt, chuyên trách quản lý, bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia và quản lý, kiểm soát xuất nhập cảnh (XNC) theo quy định của pháp luật, BĐBP đã đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin gắn với cải cách thủ tục hành chính trong quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia, kiểm soát XNC. Những năm qua, BĐBP đã tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật trong kiểm soát XNC, qua đó, đã triển khai nhiều mô hình kiểm soát XNC đem lại hiệu quả cao, có tính đột phá: Mô hình phần mềm kiểm soát XNC tập trung cơ sở dữ liệu; triển khai thủ tục biên phòng điện từ (TTBPĐT) theo Cơ chế một cửa quốc gia; mô hình Một cửa, một lần dừng; mô hình Cổng kiểm soát XNC tự động ứng dụng công nghệ nhận dạng sinh trắc học; ứng dụng chữ ký số trong thực hiện TTBPĐT và cấp các loại giấy phép trực tuyến tại cửa khẩu cảng; triển khai hệ thống camera giám sát, kết nối hình ảnh tập trung về Trung tâm quản lý XNC BĐBP... Những mô hình ứng dụng công nghệ thông minh trong quản lý cửa khẩu, kiểm soát XNC không chỉ tạo thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp khi rút ngắn thời gian, giảm bớt thủ tục thực hiện XNC, mà còn hỗ trợ cán bộ Biên phòng kiểm soát chặt chẽ các hoạt động lưu thông cửa khẩu, đảm bảo an ninh trật tự tại khu vực cửa khẩu.

Hiện nay, BĐBP đã triển khai phần mềm Quản lý, kiểm soát XNC theo mô hình dữ liệu tập trung, kết nối từ Bộ Tư lệnh BĐBP đến các cửa khẩu trên toàn quốc và đồng bộ với dữ liệu của Cục Quản lý XNC, Bộ Công an qua đường truyền kết nối trực tiếp. Việc triển khai mô hình tập trung cơ sở dữ liệu đảm bảo dữ liệu XNC được đồng bộ về Trung tâm quản lý XNC tại Bộ Tư lệnh BĐBP theo thời gian thực, kịp thời phục vụ công tác chỉ huy, chỉ đạo, điều hành; đồng thời giảm bớt chi phí đầu tư trang thiết bị và nhân lực vận hành máy móc tại các đơn vị cửa khẩu.

Thực hiện chủ trương của Chính phủ về triển khai TTBPĐT, BĐBP đã triển khai 19 TTBPĐT theo hình thức dịch vụ công (toàn phần và một phần) tại các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính tuyến biên giới đất liền và các cửa khẩu cảng; đồng thời, ứng dụng chữ ký số trong thực hiện TTBPĐT và cấp các loại giấy phép tại các cửa khẩu cảng, kết nối Cổng thông tin TTBPĐT với Cổng thông tin một cửa quốc gia.

- Việc ứng dụng công nghệ thông minh vào công tác quản lý, kiểm soát cửa khẩu, biên giới đã mang lại hiệu quả như thế nào, thưa đồng chí?

- Việc thực hiện TTBPĐT theo Cơ chế một cửa quốc gia đã góp phần cải cách thủ tục hành chính trong công tác quản lý và kiểm soát XNC, đáp ứng yêu cầu xây dựng Chính phủ điện tử; điện tử hóa trong khai báo, xác nhận hoàn thành thủ tục, nhờ đó, rút ngắn thời gian thực hiện thủ tục biên phòng tại cửa khẩu biên giới đất liền, nhất là thủ tục đối với đoàn khách du lịch, lữ hành..., tạo điều kiện thuận lợi cho người dân, doanh nghiệp.

Theo đó, người làm thủ tục có thể ở bất cứ nơi nào có kết nối Internet để thực hiện khai báo và nhận kết quả hoàn thành TTBPĐT trên Cổng thông tin một cửa quốc gia, không phải nộp hồ sơ giấy. TTBPĐT được hoàn thành trước khi tàu đến, rời cảng; ngay sau khi cập cảng an toàn, tàu được phép bốc dỡ hàng hóa, thuyền viên, hành khách được phép đi bờ; tiết kiệm thời gian, chi phí đi lại, chi phí cầu bến neo đậu, hao mòn máy móc phương tiện. Ngoài ra, góp phần nâng cao năng lực xếp dỡ hàng hóa, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp cảng khai thác tối đa công năng của cầu, bến cảng; hạn chế tiếp xúc trực tiếp giữa cán bộ thủ tục biên phòng và người làm thủ tục, tạo sự minh bạch. Nếu so với thực hiện thủ tục biên phòng thủ công, thời gian tàu thuyền chờ hoàn thành thủ tục từ 2 đến 4 giờ (sau khi cập cảng); khi thực hiện TTBPĐT đã giảm xuống bằng 0 giờ, do TTBPĐT được hoàn thành trước khi tàu cập cảng.

Đối với tàu khách chở khách du lịch quốc tế đến cảng: TTBPĐT đối với tàu, thuyền viên được hoàn thành trước khi tàu đến cảng. Đối với thủ tục nhập cảnh cho hành khách, áp dụng biện pháp kiểm tra hộ chiếu giấy tờ, cấp thị thực, đóng dấu kiểm chứng nhập cảnh vào hộ chiếu của hành khách từ phao số 0. Do vậy, thuyền viên, hành khách được phép rời tàu đi bờ tham quan, du lịch theo chương trình ngay khi tàu neo đậu an toàn tại cảng mà không mất thời gian chờ làm thủ tục.

Trên cơ sở kết quả giải quyết TTBPĐT, BĐBP đã phối hợp với Văn phòng Bộ Quốc phòng đồng bộ kết quả giải quyết thủ tục hành chính của 19 TTBPĐT tại tất cả các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính tuyến biên giới đất liền và các cửa khẩu cảng lên Cổng dịch vụ công Bộ Quốc phòng. Đến ngày 30/10/2025, đã đồng bộ 12.475 bộ hồ sơ thủ tục lên Cổng dịch vụ công Bộ Quốc phòng, 100% hồ sơ giải quyết đúng thời hạn.

Ngoài ra, BĐBP cũng triển khai ứng dụng công nghệ mã vạch và chữ ký số trong cấp, kiểm soát các loại giấy phép tại cửa khẩu cảng trên Cổng thông tin biên phòng điện tử; việc kiểm soát các loại giấy phép được thực hiện bằng công nghệ mã vạch đã giảm thời gian kiểm soát đối với thuyền viên, hành khách đi bờ, người xuống tàu làm việc từ khoảng 3 phút/người xuống còn khoảng 30 giây/người.

Đặc biệt, hiện nay, tại các cửa khẩu quốc tế và cửa khẩu trọng điểm, BĐBP đã triển khai 19 hệ thống cổng kiểm soát tự động, cửa khẩu chính tại 9 tỉnh tuyến biên giới đất liền; rút ngắn thời gian kiểm soát XNC từ 40 giây xuống còn từ 13 đến 15 giây/lượt người; kiểm soát được hộ chiếu và giấy thông hành, có tính năng nhận diện sinh trắc học.

- Việc triển khai mô hình “Cửa khẩu số-Biên giới thông minh” đòi hỏi sự phối hợp liên ngành chặt chẽ giữa các lực lượng quản lý tại cửa khẩu gồm Hải quan, Công an, Kiểm dịch. Vậy cơ chế phối hợp giữa Cục Cửa khẩu với các lực lượng này đã được thực hiện như thế nào để bảo đảm thông suốt và an toàn dữ liệu?

- Một trong những thành tựu đáng chú ý trong công tác chuyển đổi số của BĐBP là việc triển khai mô hình cửa khẩu thông minh, đặc biệt là tại các cửa khẩu trọng điểm như Hữu Nghị và Tân Thanh (Lạng Sơn). Đây là những cửa khẩu đầu tiên áp dụng hệ thống tích hợp đồng bộ giữa hạ tầng kỹ thuật hiện đại và công nghệ số tiên tiến, bao gồm hệ thống camera giám sát 24/7, trí tuệ nhân tạo, nhận diện biển số xe, khuôn mặt và các xe vận chuyển container tự hành.

Mô hình cửa khẩu thông minh này đã giúp giảm thời gian thông quan, từ 3-5 ngày trước đây xuống còn chưa đầy 1 ngày. Điều này không chỉ giúp giảm chi phí logistics, mà còn tăng cường năng lực thông quan, giảm tình trạng ùn tắc, hư hỏng hàng hóa, đồng thời, tăng cường khả năng giám sát và phát hiện sớm các hành vi vi phạm pháp luật như buôn lậu, gian lận thương mại hay XNC trái phép. Dữ liệu được liên thông qua trục kết nối quốc gia (NGSP), đảm bảo an toàn, bảo mật theo tiêu chuẩn quốc gia. Ngoài ra, các hệ thống đều tuân thủ nguyên tắc quản trị dữ liệu tập trung, phân quyền truy cập rõ ràng, có kiểm soát và ghi nhật ký đầy đủ.

Đặc biệt, với mô hình “Cửa khẩu số”, việc chia sẻ thông tin giữa các đơn vị diễn ra theo thời gian thực, phục vụ nhanh công tác kiểm soát, thống kê và xử lý tình huống. Cùng với đó, Cục Cửa khẩu đã đẩy mạnh việc ứng dụng biên phòng điện tử, giúp giảm thiểu thủ tục hành chính, tiết kiệm thời gian và chi phí; việc kết nối dữ liệu với các cơ quan chức năng của các ngành đã góp phần thúc đẩy hợp tác quốc tế trong quản lý cửa khẩu, bảo vệ biên giới, nâng cao hiệu quả công tác kiểm soát XNC và xuất nhập khẩu hàng hóa.

- Việc ứng dụng công nghệ thông tin, chuyển đổi số trong quản lý, kiểm soát cửa khẩu có tầm quan trọng như thế nào trong việc giữ vững chủ quyền lãnh thổ, an ninh biên giới quốc gia?

- Công nghệ không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý, mà còn là “lá chắn mềm” góp phần bảo vệ chủ quyền biên giới trong thời đại số. Nhờ số hóa dữ liệu và giám sát thông minh, BĐBP có thể phát hiện, cảnh báo sớm các hành vi xâm nhập trái phép, buôn lậu, gian lận thương mại, di cư bất hợp pháp.

Hệ thống camera, cảm biến, radar biên giới, định vị GPS và nhận diện khuôn mặt giúp bao quát toàn diện tuyến biên giới; đồng thời, dữ liệu được kết nối với Trung tâm chỉ huy, giúp chỉ huy ra quyết định nhanh, chính xác. Qua đó, vừa giữ vững an ninh, chủ quyền, vừa tạo thuận lợi cho hoạt động thương mại, du lịch và giao lưu nhân dân, hướng đến mục tiêu “biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển”.

- Cục Cửa khẩu BĐBP sẽ tập trung vào những nhiệm vụ trọng tâm nào để phát triển “biên giới số”, “cửa khẩu thông minh” gắn với bảo đảm an ninh, quốc phòng và tạo thuận lợi cho hoạt động XNC, thương mại biên giới trong thời gian tới?

- Chúng tôi xác định 5 nhóm nhiệm vụ trọng tâm trong thời gian tới, đó là: Hoàn thiện hạ tầng số cửa khẩu, triển khai đồng bộ các hệ thống camera, Cổng kiểm soát XNC tự động, trung tâm dữ liệu và mạng truyền dẫn bảo mật cao. Hoàn thiện hệ thống công nghệ thông tin của BĐBP, đảm bảo kết nối, khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, căn cước công dân và Cơ sở dữ liệu quốc gia về XNC, phục vụ công tác quản lý cửa khẩu, kiểm soát XNC. Đẩy mạnh ứng dụng nhận diện sinh trắc học, trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và phân tích dự báo, phục vụ công tác quản lý, chỉ huy, điều hành quản lý biên giới, kiểm soát XNC. Chuẩn hóa quy trình nghiệp vụ số, xây dựng mô hình “Một cửa điện tử liên thông” cho thủ tục XNC. Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực số trong BĐBP, từng bước hình thành đội ngũ “chiến sĩ công nghệ số” có kỹ năng phân tích dữ liệu, vận hành thiết bị thông minh, hiểu biết về an ninh mạng. Mục tiêu đến năm 2030, hầu hết các cửa khẩu quốc tế, cửa khẩu chính sẽ đạt tiêu chí “cửa khẩu thông minh, kết nối số, quản lý tập trung, vận hành tự động”, qua đó, góp phần xây dựng Biên giới số.

Tuy nhiên, chúng tôi vẫn xác định công nghệ thay đổi phương thức quản lý, nhưng yếu tố con người vẫn là trung tâm. Công nghệ dù hiện đại đến đâu cũng không thể thay thế hoàn toàn con người, từ đó xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác cửa khẩu của BĐBP “vừa hồng, vừa chuyên, vừa tinh thông công nghệ”, sẵn sàng đáp ứng yêu cầu quản lý biên giới trong kỷ nguyên số. Cụ thể, cần được trang bị kỹ năng số cơ bản; sử dụng phần mềm quản lý, hệ thống dữ liệu, thiết bị thông minh, thành thạo máy tính và các ứng dụng nghiệp vụ. Kỹ năng phân tích, xử lý thông tin: biết khai thác dữ liệu, đánh giá tình huống, đưa ra quyết định kịp thời dựa trên dữ liệu. Hiểu biết về an ninh mạng và bảo vệ dữ liệu để không chỉ vận hành hệ thống, mà còn đảm bảo an toàn, bảo mật thông tin. Kỹ năng phối hợp liên ngành và ngoại ngữ cơ bản, phục vụ công tác kiểm soát XNC và công tác đối ngoại biên phòng, hội nhập quốc tế.

- Trân trọng cảm ơn đồng chí!

Mai Anh (thực hiện)

Nguồn Biên Phòng: https://bienphong.com.vn/ung-dung-cong-nghe-thong-minh-chuyen-doi-so-trong-quan-ly-bien-gioi-cua-khau-post498571.html