Ứng phó thách thức môi trường trong nuôi trồng thủy sản
Phát triển vùng nuôi trồng thủy sản với Thành phố Hà Nội không chỉ nằm ở chuyện năng suất, sản lượng, mà ngày càng đặt nặng trách nhiệm gìn giữ chất lượng môi trường nước, bảo đảm an toàn dịch bệnh và sinh kế lâu dài cho người dân.

Mô hình nuôi cá rô phi mang lại lợi ích kinh tế cao tại xã Ứng Hòa, Hà Nội. (Ảnh: THANH TRÀ)
Không chỉ là trung tâm chính trị, văn hóa của cả nước, Hà Nội còn là địa phương có tiềm năng lớn về nuôi trồng thủy sản, với hơn 30.000ha mặt nước các loại, từ ao, hồ, đầm đến hệ thống sông, hồ tự nhiên. Hiện tại, thành phố có 102 vùng nuôi trồng thủy sản tập trung… với diện tích đang nuôi khoảng 9.828 ha, trong khi diện tích theo quy hoạch lên tới 12.302ha, đây là nguồn lực quan trọng để tạo sinh kế, tăng thu nhập cho người dân.
Tuy nhiên, quá trình đô thị hóa nhanh, áp lực nước thải sinh hoạt và sản xuất từ các khu dân cư, làng nghề, cộng với hạ tầng bảo vệ môi trường chưa đồng bộ đang đặt vùng nuôi thủy sản trước nhiều rủi ro. Nhiều khu vực phải lấy nước trực tiếp từ hệ thống sông Nhuệ, sông Tô Lịch và các kênh tưới tiêu thủy lợi, trong khi nguồn nước này đã bị tác động bởi nước thải chưa qua xử lý. Không ít nơi nước thải từ ao nuôi lại xả thẳng ra kênh mương, sông hồ, tạo nên vòng luẩn quẩn ô nhiễm.
Kết quả quan trắc môi trường cho thấy, tại nhiều thời điểm, hàm lượng ni-tơ, phốt-pho, a-mô-ni, BOD, COD… trong nước tại các vùng nuôi vượt ngưỡng cho phép gấp nhiều lần. Sự tích tụ mùn bã hữu cơ qua nhiều vụ nuôi, cộng với việc sử dụng thức ăn không hợp lý, khiến cho đáy ao nhanh chóng bị bồi lắng, môi trường nước xấu đi, làm tăng nguy cơ dịch bệnh trên thủy sản.
Một bộ phận hộ nuôi vẫn còn thói quen lạm dụng thuốc, hóa chất, kháng sinh trong xử lý môi trường và phòng trị bệnh, nhưng lại chưa có sự kiểm soát chặt chẽ. Hầu hết các hộ nuôi nhỏ lẻ chưa thực hiện quan trắc chất lượng nước định kỳ, dẫn đến việc xử lý thường mang tính tự phát. Trong bối cảnh biến đổi khí hậu với nắng nóng kéo dài, mưa lớn bất thường, những hạn chế này càng làm gia tăng rủi ro, khi chỉ một đợt nắng nóng cực đoan hoặc một trận mưa lớn cũng có thể làm thay đổi đột ngột các thông số môi trường, gây thiệt hại cho người nuôi.
Nguyên nhân sâu xa, theo đại diện Sở Nông nghiệp và Môi trường Hà Nội, quy hoạch vùng nuôi ở một số nơi còn thiếu đồng bộ, hạ tầng xử lý nước thải, ao lắng, ao xử lý chưa được đầu tư tương xứng; hệ thống kênh cấp, thoát nước chưa tách riêng rạch ròi. Cùng với đó là công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức chưa bao phủ hết, năng lực quan trắc, cảnh báo môi trường mới triển khai trên phạm vi còn hạn chế so với tổng diện tích nuôi trồng thủy sản của toàn thành phố.
Nhằm chủ động ứng phó thách thức môi trường, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội đã ban hành Kế hoạch số 305/KH-UBND ngày 24/10/2024 để triển khai Quyết định số 911/QĐ-TTg ngày 29/7/2022 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Đề án bảo vệ môi trường trong hoạt động thủy sản giai đoạn 2021-2030 trên địa bàn Thủ đô.
Thời gian tới, Hà Nội xác định triển khai đồng bộ từ quy hoạch, cơ chế, chính sách đến khoa học, công nghệ và hạ tầng môi trường. Về quy hoạch và quản lý vùng nuôi, thành phố chủ trương tổ chức lại không gian các ao, hồ, đầm, bè, lồng theo đúng sức tải của từng thủy vực; tuyệt đối không phát triển nuôi dày quá mức, không lấn chiếm hành lang sông, hồ, bảo đảm giữ được chức năng sinh thái tự nhiên của mặt nước.
Bên cạnh đó, hỗ trợ một phần kinh phí, từ 30-50% cho các hộ và tổ chức đầu tư xây dựng hệ thống ao lắng, lọc sinh học, bể xử lý bùn thải, cũng như hỗ trợ trang thiết bị công nghệ nuôi tiên tiến như biofloc, hệ thống nuôi tuần hoàn nước. Đây là những công nghệ giúp giảm lượng nước thay, tái sử dụng nguồn nước sau xử lý, hạn chế tối đa xả thải trực tiếp ra môi trường.
Đối với khoa học, công nghệ, thành phố Hà Nội dự kiến tăng cường đầu tư các trạm quan trắc môi trường nước tự động ở những vùng nuôi tập trung, kết nối với hệ thống ứng dụng thông minh (IoT, cảm biến nước, trí tuệ nhân tạo dự báo dịch bệnh). Trên nền tảng dữ liệu thời gian thực, cơ quan chuyên môn có thể đưa ra cảnh báo sớm, còn người nuôi có thể điều chỉnh kịp thời chế độ cho ăn, xử lý môi trường, từ đó giảm thiểu rủi ro. Cùng với đó là việc chuẩn hóa quy trình quản lý chất lượng nước, xử lý nước đầu vào bằng hệ thống lắng-lọc-khử trùng, ưu tiên tuần hoàn nước, sử dụng giống sạch bệnh và chế phẩm sinh học thay cho hóa chất.
Hà Nội đặt mục tiêu xây dựng, hoàn thiện đồng bộ hạ tầng cho các vùng nuôi trồng thủy sản tập trung, trong đó hệ thống kênh cấp nước và thoát nước được thiết kế riêng biệt; trước khi xả ra môi trường, nước thải phải đi qua bể lắng, ao sinh học để giảm ô nhiễm, gắn với hình thành các khu nuôi tập trung công nghệ cao, vừa bảo đảm hiệu quả kinh tế, vừa giảm áp lực môi trường…











