Ưu đãi cho công nghiệp hỗ trợ: nhiều nhưng cần 'chạm' đến thực tiễn

Dưới tác động của toàn cầu hóa, ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam đang đứng trước cơ hội lớn để vươn lên khi Nghị định 205 mở ra các chính sách ưu đãi đột phá về vốn, công nghệ và thị trường. Tuy nhiên, doanh nghiệp cảnh báo thách thức lớn trong triển khai thực tế, đòi hỏi hành động quyết liệt để biến ưu đãi thành hiệu quả thiết thực, tránh rơi vào tình trạng 'hưởng ưu đãi trên giấy'.

Nghị định 205 thúc đẩy phát triển mạnh mẽ công nghiệp hỗ trợ. Ảnh: LH

Nghị định 205 thúc đẩy phát triển mạnh mẽ công nghiệp hỗ trợ. Ảnh: LH

"Cú hích" chiến lược cho ngành công nghiệp hỗ trợ

Từ ngày 1-9 tới, các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) có thể tiếp cận nhiều chính sách ưu đãi hơn dựa trên Nghị định số 205/2025/NĐ-CP, sửa đổi bổ sung Nghị định số 111/2015/NĐ-CP. Các lĩnh vực như cơ khí chế tạo, ô tô, điện - điện tử, bán dẫn, dệt may, da giày hay vật liệu cơ bản đều nhận được sự hỗ trợ mạnh mẽ về công nghệ, nhân lực, tài chính, đất đai và thủ tục hành chính.

Đây là bước đi chiến lược nhằm thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ, giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, hướng tới nội địa hóa và tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Ông Mạc Quốc Anh, Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp vừa và nhỏ Hà Nội, nhận định chính sách mới là cơ hội lớn để các doanh nghiệp trong ngành bứt phá. Các hình thức hỗ trợ như tài chính, kỹ thuật, thị trường sẽ được mở rộng, đặc biệt chú trọng hoạt động nghiên cứu, phát triển sản phẩm, chuyển giao công nghệ và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, với mức hỗ trợ lên đến 70%. Trong bối cảnh các doanh nghiệp đang tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu và chuyển hướng sang sản xuất trong nước, điều này sẽ tạo đà thúc đẩy đầu tư và phát triển ngành.

Chủ tịch Hiệp hội CNHT Bình Dương, ông Võ Sơn Điền, nhấn mạnh vai trò then chốt của ngành này trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Trong quá trình phát triển, ngành CNHT còn gặp nhiều thách thức như thiếu liên kết chuỗi cung ứng, hạn chế trong đổi mới công nghệ, khó khăn trong tiếp cận nguồn vốn và thiếu lao động có tay nghề cao đạt chuẩn quốc tế. Chính sách mới hướng đến giải quyết những vấn đề này, nhằm giúp ngành phát triển một cách bền vững, nâng cao nội lực và giảm phụ thuộc vào nhập khẩu.

Theo số liệu của Cục Xúc tiến thương mại (Bộ Công Thương), cả nước hiện có khoảng 6.000 doanh nghiệp CNHT, trong đó phần lớn là doanh nghiệp nhỏ và vừa (chiếm gần 88%). Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hóa trong ngành còn rất thấp, chưa tới 20%. Nguyên nhân chủ yếu là do năng lực công nghệ, khả năng tiếp cận vốn và tiêu chuẩn chất lượng còn hạn chế. Phần lớn doanh nghiệp nội địa chỉ mới đáp ứng các công đoạn gia công cấp thấp, khó tiếp cận các đơn hàng quy mô lớn, tiêu chuẩn cao từ các tập đoàn lớn trong chuỗi cung ứng.

Trong bối cảnh đó, các chính sách mới kỳ vọng sẽ giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực, mở rộng quy mô, tự chủ trong sản xuất linh kiện, phụ tùng, từ đó giảm dần sự phụ thuộc vào nguồn nhập khẩu.

Cần minh bạch và đi vào thực chất

Tuy nhiên, theo các nhà phân tích và doanh nghiệp, thành công của các chính sách này còn phụ thuộc rất lớn vào việc chúng được thực thi một cách minh bạch, hiệu quả và thực chất. Thực tế, trong nhiều năm qua, dù các chính sách đã được ban hành, việc triển khai và vận dụng vào thực tế vẫn còn nhiều khó khăn, cản trở doanh nghiệp tiếp cận và tận dụng các ưu đãi này. Những doanh nghiệp cố gắng tiếp cận thì lại gặp phải thủ tục giải ngân vô cùng phức tạp và kéo dài.

Chẳng hạn, Công ty Cơ khí Lập Phúc (TPHCM) đã tham gia chương trình kích cầu đầu tư từ năm 2020, nhưng đến nay vẫn chưa nhận được khoản vay hỗ trợ lãi suất. Ông Nguyễn Văn Trí, Tổng Giám đốc công ty, chia sẻ: “Chúng tôi đã đầu tư lớn vào máy móc, xây dựng trung tâm R&D, nhưng hơn 5 năm qua, vẫn phải gồng mình trả lãi vay hàng trăm triệu đồng mỗi tháng. Đến mức phải bán nhà riêng để trả nợ, nhưng vẫn chưa hoàn tất khoản lãi vay này".

Doanh nghiệp ngành cơ khí mong chính sách hỗ trợ đi vào thực chất.

Doanh nghiệp ngành cơ khí mong chính sách hỗ trợ đi vào thực chất.

Tình trạng này không chỉ của riêng Lập Phúc. Hơn 10 doanh nghiệp khác trong ngành cũng rơi vào tình trạng tương tự, phải xoay xở để trả nợ vay hỗ trợ của nhà nước. Điều này gây ra gánh nặng tài chính và ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.

Tình trạng chậm giải ngân, thủ tục phức tạp, quy trình rườm rà và thiếu tính khả thi là những nguyên nhân chính khiến các doanh nghiệp cảm thấy chính sách chỉ mang tính hình thức. Chủ tịch HĐQT Công ty Cơ khí Nhật Long, ông Nguyễn Ngô Long, cảnh báo: “Thủ tục xin hỗ trợ quá phức tạp, mất thời gian, và quy định về đảm bảo còn mơ hồ, gây khó khăn cho doanh nghiệp nhỏ. Nhiều dự án sáng tạo, công nghệ mới không thể chứng minh theo quy định cứng nhắc, dẫn đến việc các dự án đổi mới sáng tạo bị cản trở".

Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phản ánh việc chứng minh hiệu quả dự án, dựa vào các tiêu chuẩn khắt khe, khiến họ ngần ngại hoặc bỏ cuộc trong quá trình tiếp cận các gói hỗ trợ. Việc này làm giảm hiệu quả của các chính sách, gây ra tình trạng “hưởng trên giấy” chứ chưa đi vào thực tế. Ông khuyến nghị cần phải minh bạch và tháo gỡ.

Trong lĩnh vực dệt may và da giày, các doanh nghiệp kỳ vọng chính sách mới sẽ thúc đẩy phát triển nguyên phụ liệu nội địa, giảm phụ thuộc vào nhập khẩu, nhất là trong bối cảnh các thị trường lớn như Mỹ đang siết chặt quy định về nguồn gốc hàng hóa.

Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Thời trang TPHCM, ông Phạm Xuân Hồng, cho biết nhiều nguyên phụ liệu của ngành vẫn còn phụ thuộc lớn vào Trung Quốc, đặc biệt là vải. Ông đề xuất các địa phương cần mở rộng quy hoạch các khu dệt may, tiếp nhận các dự án dệt nhuộm, thay vì lo ngại ô nhiễm để thu hút đầu tư mới.

Tương tự, ngành da giày, theo Phó Chủ tịch Hiệp hội Da giày - Túi xách Việt Nam Phan Thị Thanh Xuân, cũng đối mặt với những điểm nghẽn như thiếu khu công nghiệp chuyên ngành, tiêu chuẩn môi trường cao, quy mô thị trường chưa đủ lớn, khiến việc phát triển nguyên phụ liệu trong nước gặp nhiều khó khăn.

Các doanh nghiệp của hai ngành mong muốn hình thành trung tâm nghiên cứu, phát triển chuỗi cung ứng ngành thời trang Việt Nam để nâng cao nội lực và giảm phụ thuộc nhập khẩu.

Trước lo ngại việc chính sách có thể chưa đi ngay vào thực tế, ông Hồng cho rằng trước hết đã có chính sách, còn trong quá trình doanh nghiệp tiếp cận, phía hiệp hội sẽ đề xuất thêm giải pháp với các cơ quan quản lý nhà nước.

Cũng ghi nhận nhiều phản ánh về thời gian quan chính sách chưa đi vào thực tế, nhưng ông Võ Sơn Điền nhấn mạnh các đổi mới, cải cách trọng tâm theo bốn đột phá của Nghị quyết Bộ Chính trị, đặc biệt số 57-NQ/TW về khoa học, công nghệ, sáng tạo và chuyển đổi số; số 59-NQ/TW về hội nhập quốc tế; và số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân, sẽ tạo điều kiện thuận lợi để doanh nghiệp phát triển CNHT.

Theo các chuyên gia, khi các chính sách ưu đãi được triển khai bài bản, minh bạch và có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan quản lý, doanh nghiệp sẽ có cơ hội lớn để nâng cao năng lực cạnh tranh, thúc đẩy phát triển ngành CNHT theo hướng hiện đại, hội nhập.

Chính sách này không chỉ giúp các doanh nghiệp giảm chi phí, mở rộng thị trường, mà còn tạo điều kiện để Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, giảm lệ thuộc vào nhập khẩu và tận dụng cơ hội từ làn sóng dịch chuyển đầu tư quốc tế.

Tuy nhiên, điều quan trọng là cần đảm bảo tính thực thi của các chính sách, tránh tình trạng ban hành rồi bỏ quên, để các doanh nghiệp thực sự nhận được lợi ích và có thể phát triển bền vững trong tương lai.

Lê Hoàng

Nguồn Saigon Times: https://thesaigontimes.vn/uu-dai-cho-cong-nghiep-ho-tro-nhieu-nhung-can-cham-den-thuc-tien/