Vận dụng và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh
Trong hệ thống tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cốt lõi, làm nên dấu ấn quan trọng của Người trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, được Đảng ta kế thừa, vận dụng thành công trong quá trình lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, tiến hành công cuộc đổi mới, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, hiện thực hóa mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Ngày 17/11, Tổng Bí thư Tô Lâm dự Ngày hội Đại đoàn kết toàn dân tộc tại ấp Mũi, xã Đất Mũi, huyện Ngọc Hiển, Cà Mau (Ảnh: Thống Nhất/TTXVN).
Đoàn kết – Lời căn dặn thiết tha của Bác Hồ
Trong những cống hiến to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, tư tưởng đoàn kết trong Đảng và xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc của Bác là một cống hiến đặc sắc, có giá trị lý luận và thực tiễn hết sức quan trọng. Từ trải nghiệm thực tiễn, Người đi đến kết luận: Trong thời đại mới, để đánh bại các thế lực đế quốc thực dân nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải phóng con người, nếu chỉ có tinh thần yêu nước chưa đủ, cách mạng muốn thành công và thành công đến nơi, phải tập hợp được tất cả mọi lực lượng có thể tập hợp, xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc bền vững. Chính vì vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết toàn dân tộc là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, cơ bản, nhất quán và lâu dài, xuyên suốt tiến trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam của Người. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết thành nhiều luận điểm có tính chân lý về đại đoàn kết toàn dân tộc. Người viết: “Đoàn kết là sức mạnh của chúng ta. Đoàn kết chặt chẽ, thì chúng ta nhất định có thể khắc phục mọi khó khăn, phát triển mọi thuận lợi và làm trọn nhiệm vụ nhân dân giao phó”; “Đoàn kết là một lực lượng vô địch của chúng ta để khắc phục khó khăn, giành lấy thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, đoàn kết là thắng lợi”; “Đoàn kết là sức mạnh, là then chốt của thành công”; “Đoàn kết là điểm mẹ. Điểm này mà thực hiện tốt thì đẻ ra con cháu đều tốt”; “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành công”.
Đại đoàn kết toàn dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh bao gồm nhiều tầng nấc, nhiều cấp độ các quan hệ liên kết qua lại giữa các thành viên, các bộ phận, các lực lượng xã hội của dân tộc từ nhỏ đến lớn, từ thấp đến cao, từ trong ra ngoài, từ trên xuống dưới... Bác viết: Đoàn kết của ta không những rộng rãi mà còn lâu dài... Ta đoàn kết để đấu tranh cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà. Ai có tài, có đức, có sức, có lòng phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân thì ta đoàn kết với họ. Để quy tụ, tập hợp được mọi lực lượng vào khối đại đoàn kết toàn dân tộc, Bác cho rằng cần phải có chính sách và phương pháp phù hợp từng đối tượng. Trong từng thời kỳ, từng giai đoạn cách mạng, trước những yêu cầu và nhiệm vụ khác nhau, chính sách và phương pháp tập hợp lực lượng có thể điều chỉnh cho phù hợp với từng giai tầng xã hội, từng nhóm đối tượng khác nhau, song đại đoàn kết toàn dân tộc phải luôn luôn được nhận thức là vấn đề sống còn, quyết định thành bại của cách mạng. Chính sách đại đoàn kết dân tộc, như Người đã khẳng định: “Đoàn kết là một chính sách dân tộc, không phải là một thủ đoạn chính trị”.
Tư tưởng đoàn kết trong Đảng làm hạt nhân đại đoàn kết toàn dân tộc của Bác Hồ có ý nghĩa chiến lược, đó là tư tưởng cơ bản, nhất quán và xuyên suốt tiến trình cách mạng Việt nam. Xây dựng Đảng thành một khối đoàn kết, thống nhất là hạt nhân để xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Trong bản Di chúc thiêng liêng, điều quan tâm đầu tiên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là nói về Đảng, trước hết là vấn đề đoàn kết trong Đảng. Bác khẳng định: Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và nhân dân ta. Truyền thống đó được bắt nguồn từ truyền thống đoàn kết của dân tộc Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước, được Đảng ta kế thừa và phát huy trong giai đoạn lịch sử mới. Thấm nhuần những truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của tinh thần đoàn kết, nhất là sự đoàn kết, thống nhất trong một đảng cầm quyền, trong hạt nhân lãnh đạo.
Đoàn kết, thống nhất là quy luật tồn tại, trưởng thành và phát triển của Đảng Lao động Việt Nam (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam). Đảng có đoàn kết thành một khối thống nhất mới đủ sức mạnh để đánh đổ các thế lực áp bức bóc lột. Đảng có đoàn kết thành một khối thống nhất mới đủ sức lôi cuốn, tập hợp đông đảo quần chúng cần lao vào trận tuyến cách mạng, lật đổ chế độ cũ, xây dựng chế độ xã hội mới. Trong Di chúc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Nhờ đoàn kết chặt chẽ, một lòng một dạ phục vụ giai cấp, phục vụ nhân dân, phục vụ Tổ quốc, cho nên từ ngày thành lập đến nay, Đảng ta đã đoàn kết, tổ chức và lãnh đạo nhân dân ta hăng hái đấu tranh tiến từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền. Bác chỉ rõ: Ngày nay, sự đoàn kết trong Đảng là quan trọng hơn bao giờ hết, nhất là sự đoàn kết chặt chẽ giữa các cán bộ lãnh đạo. Khi viết Di chúc, điều đầu tiên Bác quan tâm là nói về tầm quan trọng của đoàn kết trong Đảng: Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình. Theo Bác, sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng phải dựa trên cơ sở một mục tiêu, một lý tưởng thống nhất: “Đảng ta vĩ đại, vì ngoài lợi ích của giai cấp, của nhân dân, của dân tộc, Đảng ta không có lợi ích gì khác”; “Đối với Đảng, đối với nhân dân, chúng ta có một nghĩa vụ vẻ vang là: suốt đời làm người con trung thành của Đảng, người đầy tớ tận tụy của nhân dân”. Tinh thần đoàn kết đó phải được thể hiện ở sự nhất trí, thống nhất trong toàn Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức và xây dựng đội ngũ cán bộ; được xây dựng, bồi đắp trên nền tảng chủ nghĩa Mác-Lênin, đường lối, chính sách và theo những nguyên tắc tổ chức của Đảng.
Muốn có sự đoàn kết, nhất trí vững chắc, trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi; đảng viên phải nêu cao kỷ luật tự giác, phải thực hiện tự phê bình và phê bình. Trong Di chúc, Bác khẳng định: Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.
Bác còn khẳng định đoàn kết nhất trí phải xuất phát từ tình thương yêu thiêng liêng nhất, sâu sắc nhất, bền vững nhất giữa những người cộng sản. Bác viết: “Đồng chí ta, tuy có khi khác nhau về chủng tộc hay khác nhau về nguồn gốc giai cấp, nhưng là những người cùng chủ nghĩa, cùng mục đích, cùng sống, cùng chết, chung sướng, chung khổ, cho nên phải thật thà đoàn kết”. Muốn đi tới mục đích, không phải chỉ tổ chức là đủ, phải chân thành trong tư tưởng nữa. Lời Bác dặn quý báu và thiêng liêng, là bảo vật quốc gia, chúng ta không những phải giữ gìn mà ra sức thực hiện bằng được tâm nguyện của Bác.
Nhận diện âm mưu phá hoại khối đoại đoàn kết toàn dân tộc
Hiện nay, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, khó lường. Sự cạnh tranh của các nước lớn; xung đột quân sự khu vực khốc liệt, có nguy cơ lan rộng. Cuộc cách mạng công nghệ lần thứ 4 phát triển bùng nổ. Ở trong nước vẫn còn những khó khăn, thách thức cần được giải quyết triệt để, như tình trạng phân hóa giàu nghèo, di cư trái phép; tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, tỷ lệ cán bộ người dân tộc còn ít. Các thế lực thù địch, phản động, phần tử cơ hội chính trị dùng mọi thủ đoạn thâm độc hòng thực hiện âm mưu “chia để trị”; chúng tìm mọi cách chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc bằng những thủ đoạn, chiêu bài tinh vi, thâm độc hòng phá hoại đất nước ta từ bên trong. Đặc biệt, các thế lực thù địch, phản động thường xuyên kích động nhân dân, thổi phồng, khuếch đại các vấn đề “nhạy cảm” trong xã hội; lợi dụng cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, những yếu kém trong quản lý của các cấp chính quyền ở một số nơi; thực hiện những chiêu trò đánh lạc hướng dư luận... hòng khiến người dân từ nghi ngờ, dẫn đến mất lòng tin vào Đảng, chế độ, làm suy giảm tinh thần cách mạng của nhân dân.
Chúng tập trung phá hoại sự đoàn kết trong Đảng, trọng tâm then chốt tấn công trên mặt trận tư tưởng - văn hóa, là “mũi đột phá”, “thọc sâu” với mưu đồ làm tan rã niềm tin, tạo ra “khoảng trống” để dần dần đưa hệ tư tưởng tư sản vào và tiến tới “tự chuyển hóa” xóa bỏ tư tưởng XHCN, với những thủ đoạn rất tinh vi như: xuyên tạc những nguyên lý cơ bản, khoa học của chủ nghĩa Mác- Lênin đối với thực tiễn CNXH hiện nay; phủ nhận sự nhận thức lý luận và thực tiễn những nguyên lý căn bản nhất của học thuyết Mác- Lênin, được vận dụng sáng tạo ở nước ta; phủ nhận sự lựa chọn con đường đi lên CNXH của dân tộc ta; khai thác những khó khăn, những khiếm khuyết trong thực thi các quyết sách của Đảng. Chúng xúc phạm lòng tôn kính của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đối với Bác Hồ kính yêu; xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh cũng như cuộc đời và sự nghiệp của Người. Chúng vu khống, dựng chuyện nói xấu, bôi nhọ cán bộ để gây tâm lý hoài nghi trong nhân dân. Lợi dụng những phần tử bất mãn xuyên tạc lịch sử, bóp méo sự thật, bôi đen chế độ, khoét sâu tư tưởng chống đối Đảng, Nhà nước. Chúng gây chia rẽ giữa các dân tộc. Chúng hạ thấp vai trò của mặt trận Tổ quốc. Chúng muốn vô hiệu hóa sự lãnh đạo của Đảng với quân đội, chia rẽ giữa Đảng với quân đội. Sự chống phá của các thế lực thù địch, phản động ngày càng tinh vi, nguy hiểm hơn trong điều kiện phát triển của hệ thống thông tin, truyền thông toàn cầu, chiến tranh mạng.
Trong nội bộ Đảng một số nơi không thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, buông lỏng việc tổ chức sinh hoạt, buông lỏng quản lý đảng viên. Không tự phê bình và phê bình nghiêm túc, bình xét phân loại đảng viên thì qua loa đại khái dễ người dễ ta. Ý thức chấp hành kỷ luật thấp nên có nhiều cán bộ, đảng viên vi phạm kỷ luật dẫn đến nguy cơ mất đoàn kết trong Đảng, mà còn vi phạm kỷ cương phép nước. Một số người từ việc thiếu bản lĩnh chính trị khi được các trang mạng tán dương lại ra vẻ hợm hĩnh dưới những mỹ danh “nhà yêu nước” “nhà dân chủ ” mà không biết mình đang bị lợi dụng và trở thành con rối trong tay bọn cơ hội phản động, trượt dài trên con đường phản bội. Một số cấp ủy, tổ chức đảng vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, cán bộ lãnh đạo độc đoán, chuyên quyền, kéo bè kéo cánh gây mất đoàn kết nội bộ, cấp ủy cấp trên chưa sâu sát chỉ đạo kiểm điểm làm rõ đúng sai, xử lý nghiêm những người có khuyết điểm. Về vấn đề này, Bác Hồ đã nêu một luận điểm quan trọng: Một dân tộc, một đảng, và mỗi con người, ngày hôm qua là vĩ đại có sức hấp dẫn lớn, không nhất định hôm nay và ngày mai vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi nếu lòng dạ không trong sáng nữa, nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Điều căn dặn của Bác giúp chúng ta nhìn nhận sự sa sút về tư tưởng chính trị và đạo đức lối sống dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận cán bộ đảng viên hiện nay.
Nhiêm vụ, giải pháp tăng cường khối đại đoàn kết dân tộc
Một là, chủ động, tích cực quán triệt sâu rộng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về công tác xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc để tạo sự chuyển biến mạnh mẽ trong nhận thức, trách nhiệm và hành động của cơ quan, tổ chức, đơn vị. Nâng cao hiệu quả và tiếp tục đổi mới, chú trọng đầu tư nhiều hơn nữa cho công tác dân vận, để sẵn sàng “đi trước một bước”, làm cho nhân dân hiểu, nhân dân tin, nhân dân ủng hộ theo phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”, để ý Đảng luôn hợp lòng dân.
Hai là, chú trọng, phát huy nguồn lực con người, khơi dậy khát vọng, tinh thần và ý chí phát triển, lòng yêu nước, niềm tự hào, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận toàn dân tộc. Đẩy mạnh tính tích cực chính trị, năng lực lao động, cống hiến, đổi mới sáng tạo của con người Việt Nam; nâng cao ý chí tự lực, tự cường trong mỗi người dân trước vận mệnh và tương lai của đất nước. Coi trọng việc phát huy động lực, phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên cho các lĩnh vực then chốt; xây dựng chính sách mới có tính đột phá hơn để thu hút, sử dụng, trọng dụng, đãi ngộ người tài....
Ba là, thực hiện đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả lĩnh vực của đời sống, từ kinh tế - xã hội đến chính trị, văn hóa...; xây dựng hình thức thích hợp, tổ chức chu đáo, để nhân dân tham gia ý kiến trong mọi quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước; thiết thực, khuyến khích trao đổi, tranh luận với tinh thần xây dựng về những vấn đề có ý kiến khác nhau; phát huy dân chủ, đề cao pháp luật, kỷ luật, kỷ cương trong toàn xã hội; tăng cường giám sát, tổng kết thực hiện nghị quyết, chỉ thị, và thực hiện luật dân chủ ở cơ sở.
Bốn là, chú trọng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của nhân dân, không ngừng cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân. Theo đó, trong mọi quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước phải lấy lợi ích của nhân dân làm cơ sở, cần đem “tài dân, sức dân, của dân làm lợi cho dân” và phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Lợi ích đó phải được thể hiện qua mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Năm là, kiên quyết đấu tranh chống các âm mưu chia rẽ, phá hoại khối đoàn kết toàn dân tộc. Cần đặc biệt chú trọng, nâng cao tinh thần cảnh giác, trách nhiệm công dân, sự đồng thuận xã hội, ý thức, trách nhiệm cộng đồng, tự lực, tự cường xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; chống mọi biểu hiện tư tưởng hẹp hòi, cục bộ, chủ nghĩa cá nhân... để không ngừng củng cố và phát triển khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Triển khai thực hiện đồng bộ, hiệu quả các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đồng thời giữ vững vai trò tiên phong, hạt nhân lãnh đạo của Đảng; không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Nhà nước trong xây dựng và thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc; tiếp tục đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các hội quần chúng theo hướng sáng tạo, thực sự đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, phục vụ công cuộc phát triển đất nước cường thịnh, phồn vinh, hạnh phúc.