Vận hành trường đại học địa phương gặp khó, nhiều hiệu trưởng nêu kiến nghị
Cần gỡ bỏ các quy định mang nặng tính quan liêu, bao cấp theo kiểu 'xin - cho', gây khó khăn đối với việc thực hiện quyền tự chủ của trường đại học.
Tại Hội thảo khoa học: “Trường đại học địa phương sau 25 năm xây dựng và trưởng thành: Thực trạng và kiến nghị” do Câu lạc bộ Các trường đại học địa phương trực thuộc Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam phối hợp với Trường Đại học Phạm Văn Đồng tổ chức, Tiến sĩ Trần Đình Thám – Hiệu trưởng Trường Đại học Phạm Văn Đồng đã có những chia sẻ về những khó khăn trong các hoạt động của trường.
Tiến sĩ Trần Đình Thám cho biết, nhà trường khó khăn trong việc phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, phó giáo sư. Đội ngũ giảng viên tuy có bước phát triển đáng kể, song vẫn chưa đạt mục tiêu đề ra.
Quy mô tuyển sinh, đào tạo của trường có xu hướng giảm do số lượng các ngành đào tạo bị thu hẹp, học sinh có xu hướng đến thành phố lớn để học.
Các yêu cầu, điều kiện để mở rộng ngành nghề đào tạo, liên kết đào tạo theo quy định hiện nay của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày càng khó.
Khó khăn trong việc xin chỉ tiêu tuyển sinh, đào tạo sư phạm hằng năm theo Nghị định 116, vì phải có ý kiến của tỉnh thì Bộ Giáo dục và Đào tạo mới giao chỉ tiêu.
Việc thực hiện lộ trình tự chủ tài chính cũng gặp rất nhiều khó khăn. Mặc dù được Ủy ban Nhân dân tỉnh quan tâm, nhưng việc đầu tư cơ sở vật chất trang thiết bị chưa đồng bộ, vẫn còn thiếu nhiều hạng mục công trình; mức phân bổ kinh phí từ ngân sách theo đầu sinh viên còn thấp, lại giảm dần theo lộ trình tự chủ.
Trước thực tế đó, Hiệu trưởng Trường Đại học Phạm Văn Đồng nêu 8 đề xuất.
Thứ nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo có ý kiến với Ủy ban Nhân dân tỉnh xem xét lại việc giao tự chủ tài chính cho phù hợp với thực tiễn, tương quan chung giữa các trường đại học địa phương.
Thứ hai, Nhà nước phải tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị đáp ứng nhu cầu hoạt động đào tạo, nghiên cứu khoa học và các hoạt động khác của trường.
Thứ ba, phải có chính sách ưu tiên đầu tư cho việc xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên có trình độ tiến sĩ, phó giáo sư đối với trường đại học địa phương.
Thứ tư, có quy định riêng cho việc mở rộng ngành nghề đào tạo, bồi dưỡng đối với trường đại học địa phương, nên xác định đội ngũ giảng viên đứng ngành đào tạo như trường tư. Đồng thời, khôi phục lại việc đào tạo các trình độ cao đẳng, trong đó giao luôn nhiệm vụ đào tạo giáo viên tiểu học, trung học cơ sở, mầm non cho trường đại học địa phương.
Thứ năm, xem xét điều chỉnh quy định về việc giao chỉ tiêu và đào tạo sinh viên sư phạm theo Nghị định 116 đối với trường đại học địa phương.
Thứ sáu, có cơ chế hỗ trợ để giảng viên các trường đại học địa phương được tham gia nhiều hơn các đề tài, dự án khoa học công nghệ của địa phương (giao nhiệm vụ nghiên cứu).
Thứ bảy, tạo điều kiện cho các trường đại học địa phương được tham gia các dự án giáo dục đại học do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì (hợp tác quốc tế; đào tạo, bồi dưỡng giáo viên phục vụ cho chương trình giáo dục phổ thông mới; kiểm định chất lượng giáo dục; khởi nghiệp, chuyển đổi số; cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập, …).
Thứ tám, kiến nghị Bộ Giáo dục và Đào tạo khi sửa đổi, xây dựng mới các quy định, các chính sách về giáo dục đại học cân nhắc đến các trường đại học địa phương (như sửa đổi Nghị định 99, dự thảo Thông tư quy định chuẩn cơ sở giáo dục đại học). Vì quy định chung như hiện nay sẽ rất khó cho các trường địa phương, vì tính đặc thù.
Quyền tự chủ của các trường đại học địa phương chưa cao
Trao đổi tại Hội thảo, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Võ Ngọc Hà – Hiệu trưởng Trường Đại học Tiền Giang cho biết, các trường đại học địa phương khá thuận lợi là nhận được sự quan tâm của ủy ban nhân dân tỉnh trong việc đầu tư về các nguồn lực.
Tuy nhiên, các trường cũng gặp rất nhiều thách thức so với các trường đại học thuộc Trung ương.
Cụ thể, nguồn tuyển sinh, phạm vi tuyển sinh hẹp dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt trong việc thu hút tuyển sinh với các trường đại học thuộc Bộ.
Nguồn đầu tư của tỉnh hàng năm không đồng đều do phụ thuộc vào nguồn thu ngân sách của địa phương.
Cơ chế quản lý có sự nhập nhằng, ràng buộc, chưa thông thoáng của các cơ quan quản lý cấp trên (Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, Bộ Giáo dục và Đào tạo) và các cơ quan liên quan (sở ngành) trong các thủ tục cấp kinh phí, mua sắm tài sản công, sữa chữa, bảo trì, đấu thầu; việc quản lý các nguồn thu ngoài ngân sách và trong việc tiếp nhận các thông tin về chỉ đạo quản lý điều hành về chuyên môn đôi lúc bị chậm trễ, chưa kịp thời so với các trường thuộc Trung ương.
Quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các nội dung tự chủ đại học của các trường đại học địa phương chưa cao so với các trường đại học thuộc Bộ hay trường tư thục.
Phó Giáo sư Võ Ngọc Hà nêu 6 giải pháp thực hiện quản trị đại học theo hướng tự chủ đại học.
Thứ nhất, xóa bỏ cơ chế bao cấp trong quản trị đại học, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần hạn chế can dự, tránh can thiệp sâu vào hoạt động chuyên môn và công việc nội bộ của trường; rà soát hệ thống cơ chế quản lý nhằm phát hiện và gỡ bỏ các quy định mang nặng tính quan liêu, bao cấp theo kiểu “xin - cho”, gây khó khăn đối với việc thực hiện quyền tự chủ của trường.
Thứ hai, hạn chế thực hiện cơ chế chủ quản đối với nhà trường. Việc trao quyền tự chủ cho trường đòi hỏi cơ quan chủ quản hạn chế áp dụng cơ chế chủ quản theo hướng không trực tiếp giải quyết các vấn đề như hoạt động hoạch định chiến lược phát triển, tổ chức, cán bộ và tài chính, mà giao cho trường tự quyết định, cơ quan chủ quản tập trung thực hiện nhiệm vụ thanh tra, kiểm tra theo hình thức hậu kiểm đối với cơ sở giáo dục đại học theo quy định pháp luật.
Thứ ba, quan tâm đến tổ chức và lãnh đạo. Cụ thể là phân quyền và thực thi quyền lực giữa Đảng ủy, Hội đồng trường và Ban giám hiệu; Xác định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của các đơn vị, tổ chức trong nhà trường; Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Đảng ủy, Hội đồng trường, Ban giám hiệu và các đơn vị, tổ chức trong nhà trường.
Thứ tư, tăng cường chức năng hoạch định. Cụ thể là hoạch định và tổ chức thực hiện chiến lược phát triển nhà trường dài hạn và kế hoạch phát triển hàng năm tiếp cận cơ chế tự chủ.
Hoạch định và thực hiện các chiến lược liên quan đến các lĩnh vực: xây dựng chương trình, biên soạn giáo trình, kế hoạch giảng dạy; tổ chức tuyển sinh, đào tạo, công nhận tốt nghiệp; tổ chức bộ máy; quản lý, sử dụng nguồn lực; hợp tác trong và ngoài nước.
Hoạch định chiến lược phát triển đội ngũ cần lưu ý phát triển lực lượng cán bộ giảng dạy phải có bề dày khoa học, có kinh nghiệm giảng dạy và nghiên cứu khoa học đúng chuẩn mực quốc tế.
Hoạch định theo cơ chế tự chủ phải chú ý đến các nguồn thu của hoạt động đào tạo từ các bậc học, đặc biệt đẩy mạnh nguồn thu từ các kết quả nghiên cứu và sáng tạo trong và ngoài nước.
Thứ năm, tăng cường quản trị theo cơ chế chính sách. Quản trị theo cơ chế chính sách được đề xuất bao gồm: xây dựng cơ chế đảm bảo Hội đồng trường là cấp có thẩm quyền cao nhất trong nhà trường; gắn hoạt động của hội đồng trường với việc thực hiện quyền tự chủ và trách nhiệm xã hội của nhà trường; xác định nội dung, hình thức, cơ chế giải trình và đánh giá mức độ giải trình của nhà trường. Để tự chủ tốt thì cần nâng cao trách nhiệm, quyền hạn cụ thể của Hội đồng trường, tăng tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm xã hội trong tổ chức Hội đồng trường.
Thứ sáu, tăng đầu tư công đồng thời với tăng quyền tự chủ, nhằm mục đích tăng cường năng lực thực hiện tự chủ trong nghiên cứu khoa học công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.
Thực hiện triệt để phân tầng giáo dục đại học
Hiệu trưởng Trường Đại học Tiền Giang khẳng định, tự chủ đại học là điều kiện cần thiết để thực hiện các phương thức quản trị đại học tiên tiến nhằm cải tiến và nâng cao chất lượng đào tạo.
Các cơ sở giáo dục đại học nói chung, đặc biệt là các trường đại học địa phương nói riêng cần phải nâng cao năng lực quản trị, quản lý, lựa chọn được đội ngũ quản lý năng động, có quyết tâm cao trong đổi mới, tự chủ tại các cơ sở đào tạo đại học.
Thay đổi tư duy quản trị, quản lý theo kiểu cũ để tận dụng hết vai trò của các bên liên quan trong quá trình xây dựng, phát triển Nhà trường.
Các cơ quan quản lý Nhà nước, cơ quan ban hành pháp luật cần xem xét sửa đổi, bổ sung các văn bản luật có liên quan vấn đề tự chủ như: Luật Đầu tư công, Luật lao động, Luật đấu thầu và một số văn bản dưới luật (nghị định, thông tư) để hình thành khung pháp lý thực hiện tự chủ đại học đồng bộ, nhất quán và có tính khả thi.
Các bộ, ngành, địa phương cần rà soát, sửa đổi và bổ sung các văn bản quy phạm pháp luật về thực hiện tự chủ đại học dựa trên khung pháp lý đã được hoàn chỉnh, phù hợp với các điều kiện của các trường đại học địa phương.
Cần có cơ chế phù hợp để các trường đại học địa phương thực hiện quyền tự chủ đại học đúng nghĩa và đúng thực chất; mạnh dạn xóa bỏ cơ chế cơ quan chủ quản và cơ chế xin - cho, xin cấp phép, loại bỏ sự can thiệp có tính hành chính từ phía cơ quan quản lý Nhà nước đối với các trường đại học tự chủ.
Việc phân tầng cơ sở giáo dục đại học là việc cần được thực hiện triệt để. Vì vậy, Chính phủ, Bộ Giáo dục và Đào tạo cần sớm ban hành quy định về phân tầng cơ sở giáo dục đại học, hướng dẫn giải quyết các vấn đề về tài sản, tài chính và nhân sự khi không còn chế độ cơ quan chủ quản để các trường vận hành thông suốt.
Phát huy vai trò của Hội đồng trường đối với việc thực hiện và giám sát nội dung tự chủ thay thế dần cơ chế giám sát hành chính của cơ quan chủ quản.
Xác lập chế độ trách nhiệm giải trình minh bạch, đầy đủ của cơ sở giáo dục đại học trước cơ quan quản lý Nhà nước, xã hội và người học.
Phát biểu kết luận Hội thảo, Phó Giáo sư Bùi Văn Dũng - Chủ nhiệm Câu lạc bộ Các trường đại học địa phương khẳng định, sau 25 năm xây dựng và trưởng thành, các cơ sở giáo dục đại học ở địa phương đang chứng minh tính đúng đắn của phân tầng đại học, đây là lớp các trường đại học đa ngành, đa lĩnh vực, nhiều cấp học chịu sự quản lý nhà nước của ủy ban nhân dân các tỉnh thành phố trực thuộc trung ương, sự chỉ đạo về mặt chuyên môn của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các bộ ngành trung ương; tổ chức đào tạo nghiên cứu khoa học nhằm cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với thực tế của địa phương.
Tuy nhiên hiện nay, ngành giáo dục đào tạo nói chung và các trường đại học địa phương nói riêng đang gặp một số khó khăn thách thức cần được Chính phủ chỉ đạo để có giải pháp phát triển bền vững.
Trên cơ sở các ý kiến của đại biểu tại Hội thảo, Câu lạc bộ sẽ tổng hợp các đề xuất, kiến nghị trình Hiệp hội Các trường đại học, cao đẳng Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo và Chính phủ để có các giải pháp chỉ đạo giúp các cơ sở giáo dục đại học địa phương phát triển bền vững.