Văn hóa giáo dục phải tạo ra con người đa trí tuệ
Trong thế giới hiện đại, những người 'đa trí tuệ' sẽ tự do hơn những người 'đơn trí tuệ'. Sứ mệnh của giáo dục là đào tạo những cá nhân trở thành những nhân cách - một con người với những cá tính riêng không trùng lắp.
Nguồn gốc của văn hóa giáo dục
Văn hóa giáo dục là nền giáo dục được tổ chức, vận hành hướng tới các chuẩn và các giá trị của giáo dục. Triển khai văn hóa giáo dục là làm cho các khâu, các thành tố, các hoạt động của gia tăng các giá trị chân, thiện, mỹ và các giá trị đó thể hiện đầy đủ trong các phương diện, các quá trình giáo dục.
Học tập liên văn hóa để trở thành công dân toàn cầuĐỌC NGAY
Nếu văn hóa là "một hệ thống giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy trong quá trình hoạt động thực tiễn trong sự tương tác với môi trường tự nhiên và xã hội của mình" thì văn hóa giáo dục là một tiểu hệ thống các giá trị tinh thần do con người sáng tạo và tích lũy qua quá trình hoạt động thực tiễn trong lĩnh vực giáo dục.
Văn hóa giáo dục thể hiện, vận động trong các không gian giáo dục mà biểu hiện tập trung của nó là 3 môi trường giáo dục: giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội. Trong ba môi trường giáo dục này, các giá trị giáo dục phải được thực hiện thống nhất. Bởi nếu không, tác động giáo dục sẽ không mang lại hiệu quả xây dựng nhân cách con người như xã hội kỳ vọng và yêu cầu.
Các giá trị do cộng đồng cư dân sáng tạo ra được trải nghiệm lâu dài là nguồn gốc cơ bản của các giá trị giáo dục mà văn hóa giáo dục trong cộng đồng đó tích lũy và phát triển.
Phạm vi bao quát của văn hóa giáo dục, hay nói khác đi, văn hóa giáo dục, xét từ phạm vi vận hành, có thể hiểu nó là một phạm trù, bao gồm văn hóa học đường (văn hóa trường học), văn hóa đọc, văn hóa dạy, văn hóa học tập, văn hóa học thuật giáo dục, văn hóa sư phạm...
Văn hóa giáo dục có mối liên quan chặt chẽ với niềm tin và thái độ của người dạy và người học đối với hệ thống giáo dục mà họ là những chủ thể trong đó. Mặt khác, khi cộng đồng dân cư không hài lòng với kết quả giáo dục, khi người dân thể hiện ý nguyện đối với giáo dục, bày tỏ ý kiến mong mỏi giáo dục đem lại điều gì, điều gì họ không chấp nhận, thì khi đó, văn hóa giáo dục có vấn đề phải xem lại.
Văn hóa giáo dục của một xã hội là không gian của những hình thức, chuẩn mực, giá trị vật chất và lý tưởng cụ thể, trong đó diễn ra quá trình bộc lộ tính dân tộc của sức mạnh bản chất trong con người".
Nhà giáo dục O.A.Radugina
Nhà giáo dục O.A.Radugina còn cho rằng: Văn hóa giáo dục không chỉ là một chỉ tiêu đánh giá trình độ học vấn của người dân cả nước, mà còn là một trong những chỉ tiêu quan trọng đánh giá sự phát triển của xã hội ở một giai đoạn lịch sử cụ thể.
Tính dân tộc là đặc trưng hàng đầu của văn hóa giáo dục. Có 2 cấu trúc cơ bản có ảnh hưởng quyết định đến văn hóa giáo dục là tâm lý dân tộc và mô thức giáo dục. Mỗi quốc gia, mỗi cộng đồng đều có văn hóa riêng nên văn hóa giáo dục lại càng đa dạng. Sự đa dạng này là biểu hiện của bước tiến nhân loại trong xây dựng một thế giới văn minh và văn hiến.
Văn hóa giáo dục mang tính khoa học, nó loại bỏ những gì được coi là phản khoa học ra khỏi môi trường giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội như sự bất bình đẳng và không công bằng trong quyền công dân, sự bất bình đẳng giới, thái độ phân biệt chủng tộc, bạo lực, bè phái, tư tưởng bá quyền, tham lam và tàn ác, tham nhũng, xa xỉ, lãng phí, không giữ gìn sự an toàn môi trường sống...
Văn hóa giáo dục luôn mang tính hiện đại. Phát huy bản sắc văn hóa giáo dục của dân tộc, tiếp thu có chọn lọc những giá trị văn hóa giáo dục của nhân loại là điều kiện để giáo dục phát triển đúng xu thế thời đại, gia tăng sự hội nhập vào văn hóa giáo dục toàn cầu.
Văn hóa giáo dục mang tính đại chúng, luôn hướng đến một nền giáo dục phục vụ cho đông đảo quần chúng, thực hiện giáo dục cho mọi người, cả nước xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời, không một ai bị bỏ quên trong phát triển giáo dục, nâng cao dân trí để trao quyền cho dân.
Những tính chất nói trên của văn hóa giáo dục là vô cùng cần thiết để nền giáo dục làm tròn sứ mệnh của mình là đào tạo những cá nhân trở thành những nhân cách - một con người với những cá tính riêng, không trùng lặp với người khác.
Dạy người, trước hết là phải hiểu người đó. Nhà triết học và là nhà giáo dục người Pháp Jean Jacques Rousseau đã nói: "Giáo dục cần phải hiểu người học, nhất là trẻ thơ. Một sự thật rất đáng lên án, đó là không hiểu biết tuổi thơ hoặc hiểu sai lầm về tuổi thơ. Chúng ta không bao giờ biết đặt mình vào địa vị trẻ em, chúng ta không thâm nhập vào ý tưởng của chúng, chúng ta gán cho chúng ý tưởng của mình, và bằng cách luôn đi theo những suy luận của mình, chúng ta chỉ chồng chất vào đầu óc chúng những điều ngông cuồng vô lý và sai lầm mà thôi".
Đó là một cảnh báo cho cả việc giáo dục người lớn hiện nay. Kêu gọi người lớn học suốt đời, nhưng phải hiểu họ cần học cái gì và học cái đó bằng cách nào để cung ứng cho họ những dịch vụ giáo dục phù hợp. Đó mới là văn hóa giáo dục người lớn.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về văn hóa giáo dục
Trong những lời bàn về giáo dục, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường đề cập đến văn hóa giáo dục. Theo Người, mục tiêu của văn hóa giáo dục là thực hiện đầy đủ những chức năng của văn hóa thông qua việc dạy và học.
Những chức năng của văn hóa gồm: chức năng nhận thức, chức năng thẩm mỹ, chức năng giáo dục, chức năng điều tiết và chức năng động lực. Những chức năng này của văn hóa sẽ góp phần ổn định tình trạng xã hội để hướng tới sự phát triển bền vững, cải thiện các mối quan hệ xã hội và làm cho con người có đời sống văn hóa phong phú.
Dạy và học luôn nhằm mở mang dân trí, nâng cao kiến thức, bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, những phẩm chất trong sáng và phong cách sống lành mạnh cho con người, đào tạo con người có ích cho xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu xây dựng văn hóa giáo dục như sau:
Về nội dung giáo dục
Không nhồi nhét quá thừa những kiến thức vô bổ, nhưng lại quá thiếu những kiến thức cần thiết cho việc xây dựng kinh tế, quản lý xã hội, hình thành con người Việt Nam mới.
Về phương châm giáo dục
Học đi đôi với hành, lý luận liên hệ với thực tế, học tập kết hợp với lao động, gắn kết giáo dục gia đình, giáo dục trường học với giáo dục xã hội.
Về phương pháp giáo dục
Phương pháp giáo dục phù hợp với mục tiêu giáo dục. Cách dạy phải phù hợp với trình độ người học, với đặc điểm lứa tuổi, dạy từ dễ đến khó. Học mọi lúc mọi nơi, học mọi người, học suốt đời, coi trọng tự học, tự đào tạo, tự giáo dục và đào tạo lại.
Về mục tiêu giáo dục
Đào tạo người công dân tốt, người lao động tốt, người chiến sĩ tốt, người cán bộ tốt. Xây dựng con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Trong thư cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi thầy và trò dịp khai giảng năm học 1968 - 1969 có đoạn:
- Dù khó khăn đến đâu cũng phải tiếp tục thi đua dạy tốt và học tốt. Trên nền tảng giáo dục chính trị và lãnh đạo tư tưởng tốt, phải phấn đấu nâng cao chất lượng văn hóa và chuyên môn nhằm thiết thực giải quyết các vấn đề do cách mạng nước ta đề ra và trong một thời gian không xa, đạt được những đỉnh cao của khoa học và kỹ thuật.
- Giáo dục là sự nghiệp của quần chúng. Cần phải phát huy đầy đủ dân chủ xã hội chủ nghĩa, xây dựng quan hệ thật tốt, đoàn kết thật chặt chẽ giữa thầy và thầy, giữa thầy và trò, giữa học trò với nhau, giữa cán bộ các cấp, giữa nhà trường và nhân dân để hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ đó.
- Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng và nhân dân ta, do đó các ngành, các cấp Đảng và chính quyền địa phương phải thật sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy sự nghiệp giáo dục nước ta lên những bước phát triển mới.
Chỉ với 3 đoạn trong lá thư này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thâu tóm rất nhiều vấn đề về văn hóa giáo dục mà cho đến nay, chúng ta chưa thật thực hiện tốt lời dạy của Người.
Những loại hình văn hóa giáo dục cơ bản
Văn hóa giáo dục vô cùng đa dạng. Mỗi dân tộc, mỗi cộng đồng dân cư có thể có văn hóa của riêng mình. Tuy nhiên, sự khái quát khoa học đã tìm đến những loại hình văn hóa giáo dục cơ bản trên nền tảng trình độ phát triển kinh tế qua các giai đoạn lịch sử. Phân biệt 3 loại hình văn hóa giáo dục sau:
1. Loại hình văn hóa giáo dục trong xã hội nông nghiệp
Trong xã hội nông nghiệp, nền giáo dục của các quốc gia coi việc duy trì một xã hội ổn định là ưu tiên hàng đầu. Sứ mệnh của nền giáo dục ấy sẽ hướng vào đào tạo những con người thừa hành. Học tập và thi cử là cơ chế điều hành các hoạt động. Học để thi, thi để phân loại địa vị xã hội và mức thu nhập. Học nhiều thì làm quan to, bổng lộc nhiều, trở thành giới thượng lưu. Học vừa phải thì làm người thừa hành, thực thi sự chỉ dẫn của nhà quản lý. Học ít hay không học thì sống trong cộng đồng lao động, làm việc để kiếm sống.
Để đào tạo người thừa hành thì yêu cầu học thuộc bài là chính, tức là học để có một số kiến thức đủ để thừa hành nhiệm vụ. Do vậy, kiến thức nào cần có thì đưa vào các kỳ thi. Người ta chỉ học những điều sẽ thi. Nắm không vững những điều cần thi thì sẽ bị đánh hỏng, kết quả là về với tầng lớp bình dân.
Vì thế, văn hóa đào tạo của loại hình này như sau:
- Học thuộc lòng theo lối tầm chương trích cú với các quy định ngặt nghèo và vô lối, mọi ý tưởng cá nhân không theo quy định đều bị cấm đoán.
- Phương pháp đào tạo là lấy người dạy làm trung tâm; người dạy áp đặt những kiến thức cần nắm cho người học, đưa người học vào khuôn mẫu chật hẹp, lấy sự vâng lời làm cốt, học đúng những gì đã quy định, làm đúng những gì đã học.
2. Loại hình văn hóa giáo dục trong xã hội công nghiệp
Trong xã hội công nghiệp, nền giáo dục chủ trương xây dựng xã hội định hướng phát triển là ưu tiên hàng đầu (trên nền ổn định). Mục tiêu đào tạo là con người lao động với sự phát triển tư duy sáng tạo trong lao động và những năng lực kỹ thuật - nghề nghiệp.
Phương châm giáo dục là học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn liền với xã hội.
Nội dung học tập chú trọng những kiến thức khoa học và kỹ thuật; trong quá trình học, người học được hướng nghiệp, coi trọng tự do chọn nghề, hướng người học trở thành những lao động phục vụ cho hệ thống sản xuất công nghiệp.
Nguyên lý giáo dục là dạy học phân hóa, lấy học sinh làm trung tâm, phát triển năng lực tái tạo tri thức và tư duy phê phán.
3. Loại hình văn hóa giáo dục trong xã hội tri thức
Đây là loại hình văn hóa hướng đến phát triển một xã hội phát triển năng động, xây dựng nền kinh tế dựa trên cơ sở tri thức. Do đó, tri thức là yếu tố hàng đầu trong phát triển kinh tế.
Mục tiêu đào tạo của giáo dục trong giai đoạn này là mẫu người lao động tri thức, phát huy năng lực sáng tạo và tư duy phản biện để sáng tạo ra những tri thức mới, những công nghệ mới.
Dưới tác động mạnh mẽ của cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc chuyển đổi số trong hệ thống giáo dục đã đặt ra yêu cầu về những con người học tập suốt đời, có năng lực thích ứng với môi trường số, xã hội số, nền kinh tế số.
Nguyên lý giáo dục là học tập suốt đời vì một xã hội phát triển bền vững.
Phương châm giáo dục hướng vào việc học tập phân hóa, cá nhân hóa chương trình đào tạo.
Phương pháp giáo dục lấy người học làm trung tâm, trên cơ sở năng lực sử dụng công nghệ học tập hiện đại, thực hiện học tập ở nhà, tại nơi làm việc, học mọi lúc mọi nơi, cập nhật tri thức kịp thời.
Mô hình giáo dục truyền thống trở nên lỗi thời, hình thành mô hình giáo dục mở - mô hình xã hội học tập.
Dưới đây là bảng so sánh 3 loại hình văn hóa giáo dục:
Vấn đề cốt lõi nhất của văn hóa giáo dục là hướng nền giáo dục vào mục tiêu đào tạo nào. Đó là vấn đề mẫu người đáp ứng sự phát triển của nền kinh tế mà quốc gia đang xây dựng.
Loại hình văn hóa giáo dục trong xã hội tri thức cần được hiểu là văn hóa giáo dục của xã hội học tập. Văn hóa giáo dục này hướng đến mục tiêu là đào tạo những công dân học tập - người công dân có nghĩa vụ học tập suốt đời.
Hiện nay, các quốc gia xây dựng xã hội học tập đều thiết kế Bộ tiêu chí đánh giá công dân học tập gồm những năng lực cốt lõi với những kỹ năng cơ bản và những phẩm chất mong muốn.
Triết lý giáo dục và văn hóa giáo dục
Triết lý giáo dục là một quan điểm, một tư tưởng giáo dục được hình thành qua những trải nghiệm về thực tế giáo dục, chỉ ra cách tổ chức giáo dục có tính quy luật để hướng đến mô hình xã hội lý tưởng và mẫu người của xã hội đó trong một giai đoạn lịch sử nhất định.
Trên thực tế, triết lý giáo dục không phải là cái duy nhất, mà cũng không phải nhất thành bất biến. Mỗi phương diện, mỗi hoạt động giáo dục đều có triết lý định hướng hành động cụ thể.
Nghiên cứu Di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giáo dục, ta thấy có nhiều ý kiến của Người mang tính triết lý về những phương diện giáo dục.
Về mục tiêu giáo dục: Muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội, phải có con người xã hội chủ nghĩa.
Về mẫu người xã hội chủ nghĩa: Con người đức - tài, vừa hồng vừa chuyên, hồng thắm chuyên sâu.
Về nội dung giáo dục: Giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ, đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời của người dân.
Về phương châm giáo dục: Lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành, giáo dục kết hợp với lao động sản xuất.
Về phương pháp giáo dục: Dạy học phải dễ hiểu dễ nhớ, học nhanh, thiết thực, chống nhồi sọ, áp đặt, chống giáo điều, chống kinh viện, không tin tưởng mù quáng những điều trong sách vở.
Về phương thức học tập: Học không bao giờ cùng.
Thực ra, trên đây chỉ là một trong những cách tiếp cận tư tưởng giáo dục của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Có thể còn có nhiều cách tiếp cận, song nếu khai thác những quan điểm mang tính triết lý giáo dục của Người thì mấy điều trên cũng đã có thể thấy được những nét cơ bản trong triết lý giáo dục theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trên thực tế, rất nhiều quan điểm hay tư tưởng giáo dục được đông đảo người coi là triết lý giáo dục. Nhiều tư tưởng đó được kết tinh trong những danh ngôn, có ảnh hưởng không chỉ trong một quốc gia, mà còn lan tỏa tới các nước, các vùng lãnh thổ trên toàn cầu. Vì thế, việc tranh luận để đi đến sự thống nhất về triết lý cho sự phát triển giáo dục chưa bao giờ thành công, mà có thể ý tưởng đi tìm triết lý giáo dục chỉ thực sự phát huy tác dụng khi nó được đưa ra đúng với một hoàn cảnh giáo dục nào đó.
Theo GS.TSKH. Trần Ngọc Thêm, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh; văn hóa dân tộc quyết định văn hóa giáo dục, kinh tế quyết định hạ tầng giáo dục; chính trị, kinh tế, văn hóa thông qua triết lý giáo dục quyết định nội dung và phương pháp giáo dục. Triết lý giáo dục luôn chịu chi phối của 3 yếu tố: chính trị, kinh tế và văn hóa.
Khi triển khai sự nghiệp giáo dục, người ta phải tính đến cấu trúc bên trong (nội tại) của triết lý giáo dục. Lược đồ về cấu trúc nội tại này cho thấy, có 4 thành tố cơ bản. Đó là sứ mệnh (mision), tầm nhìn (vision), mục tiêu (objective) và mục đích (aims, purpose).
Sứ mệnh là khái niệm nói về một nhiệm vụ quan trọng, có ý nghĩa thiêng liêng. Có người cho rằng, sứ mệnh giáo dục là một tuyên ngôn về mục đích giáo dục, là sự cam kết nhiệm vụ thực hiện mục đích giáo dục trong hiện tại và tương lai.
Tầm nhìn là sự định hướng cho tương lai. Chẳng hạn, ta nói "tầm nhìn giáo dục 2045" thì mọi người sẽ hiểu rằng, vào thời điểm đó, nền giáo dục định hướng vào mô hình đào tạo nào, từ đó sẽ có trình độ đào tạo ra sao trong mối tương quan với khoa học và thế giới, sự phát triển của nền giáo dục tương ứng với nền kinh tế tại thời điểm đó.
Khái niệm "tầm nhìn" được dùng khá gần với khái niệm "mục đích": Trong khi "tầm nhìn" nặng về hình ảnh đạt được trong tương lai, thì "mục đích" lại cụ thể hơn, hữu hình hơn về kết quả trong tương lai cần đạt được.
Khái niệm "mục tiêu" xác định kết quả cần đạt một cách rõ ràng cụ thể, và thời gian thực hiện mục tiêu là không dài. Mục tiêu là mục đích trước mắt, cột mốc về kết quả cụ thể ở phía trước, cách hiện tại không xa.
Những nguyên lý và giá trị cốt lõi trong văn hóa giáo dục của thế giới đương đại
Thế giới ngày nay có sự phát triển về chất nhờ vào Cách mạng công nghiệp 4.0. Nền giáo dục trong xã hội công nghiệpđã có những khác biệt về nguyên lý giáo dục bởi so với nền giáo dục trong xã hội hậu công nghiệp đã có những thay đổi về sứ mệnh giáo dục, về những năng lực cốt lõi của con người trong thế hệ mới, về tổ chức trường lớp cũng như về nội dung, phương pháp đào tạo.
Xét trên bình diện toàn cầu, sự thay đổi lớn lao nhất về tổ chức giáo dục là việc từ bỏ mô hình giáo dục khép kín sang mô hình giáo dục mở (xã hội học tập); về phương thức và phương pháp giáo dục, học tập trực tiếp là giảm nhanh tỷ trọng thực hiện các khóa học, nhường chỗ cho học tập trực tuyến. Triết lý "giáo dục cho mọi người" người ta đã thay bằng ý tưởng "Học tập suốt đời cho mọi người".
Văn hóa giáo dục trong thế kỷ 21 hướng vào những nguyên lý cơ bản:
1. Nguyên lý giáo dục khai phóng
Nguyên lý này xuất phát từ quan điểm coi con người là cứu cánh chứ không phải là phương tiện. Giáo dục hướng tới mẫu người tự do, tức là con người được phát huy những năng lực bên trong một cách triệt để nhằm làm cho họ thành một nhân cách có những cá tính riêng biệt. Theo cách nói của các nhà triết học, con người có những đặc điểm cá tính riêng là con người trở thành chính họ, nhân cách của họ không trùng lặp nhân cách người khác, họ không phải là cái bóng của người khác.
Trong giáo dục phương Tây, đào tạo con người tự do là định hướng hàng đầu. Giáo dục con người tự do là giáo dục tự do dịch sang tiếng Việt là giáo dục khai phóng.
Về thực chất, giáo dục khai phóng là nguyên lý giáo dục nhằm trao quyền cho người học để chuẩn bị cho họ có năng lực ứng phó với sự phức tạp, biến đổi không ngừng và đa dạng của xã hội hiện đại. Nó cung ứng cho họmột nền tảng kiến thức rộng về một thế giới mở cùng các kiến thức trong một lĩnh vực chuyên môn cụ thể.
Trong điều hành chương trình xây dựng xã hội học tập, UNESCO cũng khẳng định quan điểm: chỉ có học tập suốt đời, người dân mới có đủ năng lực để được trao quyền giải quyết những thay đổi liên tục của xã hội và môi trường và đối đầu với những thách thức về kinh tế.
2. Nguyên lý giáo dục cá nhân hóa
Giáo dục cá nhân hóa hướng vào việc đáp ứng nhu cầu phát triển riêng của từng người học. Cùng một nội dung học, nhưng mỗi người học lại được hướng dẫn để phát huy sở trường, phát triển năng lực riêng. Việc đào tạo có nội dung thống nhất nhưng lại đáp ứng sự phát triển riêng của mỗi người. Trong cùng khóa học người hiểu chậm không kéo dài thời gian của người hiểu nhanh, người có trình độ tiếp thu tốt không phải chờ đợi người tiếp thu chậm chạp.
Giáo dục cá nhân hóa đòi hỏi người dạy phải hiểu rõ những khả năng, hứng thú, thói quen của người học, không áp đặt người học trong việc tiếp thu kiến thức và kỹ năng qua bài học.
Giáo dục cá nhân hóa là nguyên lý rất gần với nguyên lý giáo dục khai phóng.
3. Nguyên lý giáo dục dân chủ và bình đẳng
Nguyên lý giáo dục khai phóng và giáo dục cá nhân hóa chỉ thực hiện tốt khi có môi trường thực sự dân chủ và bình đẳng.
Từ lâu, các nhà giáo duc muốn giáo dục được tiến hành với xuất phát điểm của mọi người là ngang bằng về cơ hội tiếp cận sự học, không phân biệt thành phần xuất thân, vị thế xã hội, chủng tộc, ngôn ngữ, giới tính cũng như những khác biệt về văn hóa. Điều này có nghĩa là, mọi người đều có cơ hội thành đạt như nhau từ vạch xuất phát. Người ta sẽ cạnh tranh nhau bằng sự nỗ lực cố gắng của bản thân, chứ không dựa dẫm vào bất kỳ điều kiện ưu tiên nào. Đó là ý tưởng cốt lõi về xây dựng người tự lập thân.
Các giá trị cốt lõi tương ứng của nguyên lý giáo dục dân chủ và bình đẳng là:
- Con người tự lập thân.
- Con người thực sự là chủ thể chính trị của xã hội.
- Con người được bình đẳng về cơ hội tiếp cận "giáo dục cho tất cả mọi người".
4. Nguyên lý giáo dục đa văn hóa
Giáo dục đa văn hóa hướng tới mẫu người có những hiểu biết về văn hóa của đất nước mình, đồng thời có cả hiểu biết về văn hóa của các nước khác. Từ đó, con người trân trọng giữ gìn sự đa dạng về văn hóa toàn cầu, tôn trọng văn hóa khác, văn hóa của người khác. Đó là yếu tố quan trọng để con người giữa các quốc gia hiểu nhau và chung sống với nhau trên nền tảng tôn trọng văn hóa của nhau.
Toàn cầu hóa là xu thế phát triển của thế giới hiện đại. Xu thế này đòi hỏi giáo dục quan tâm đến việc đào tạo những công dân toàn cầu. Khái niệm công dân toàn cầu thể hiện một thế giới quan trong văn hóa giáo dục bao gồm một tập hợp các giá trị cần thiết để con người tự do đi lại trong một thế giới rộng lớn, không bị những rào cản về ngôn ngữ, văn hóa, phong tục, tập quán... và việc làm. Khái niệm "giáo dục công dân toàn cầu" được sử dụng trong nhiều trường hợp để thay thế cho các thuật ngữ bao hàm tính toàn cầu như giáo dục hòa bình, giáo dục nhân quyền, giáo dục quốc tế hay giáo dục vì sự phát triển bền vững.
Các giá trị cốt lõi tương ứng với nguyên lý giáo dục đa văn hóa gồm:
- Chấp nhận sự đa dạng của thế giới hiện đại.
- Tôn trọng con người, tôn trọng sự đa dạng văn hóa.
- Đối thoại văn hóa để xây dựng các mối quan hệ văn hóa - văn hóa, người - văn hóa, người - người.
- Khoan dung, thân thiện, đồng cảm với người khác.
- Chung sống trong ngôi nhà toàn cầu.
5. Nguyên lý giáo dục đa trí tuệ
Giáo dục đa trí tuệ nhằm đào tạo con người toàn diện, phát huy tốt nhất những năng lực khác nhau vốn có trong con người và khả năng sáng tạo của họ.
Nguyên lý giáo dục đa trí tuệ dựa trên Thuyết "Đa trí tuệ" do nhà tâm lý học Howard Gardner (Hoa Kỳ) đề xuất có 8 loại hình trí tuệ cơ bản:
1. Trí thông minh logic - toán: Vùng làm việc đòi hỏi tính logic chặt chẽ, trừu tượng, sự lập luận và suy diễn hợp lý. Vùng làm việc này đòi hỏi con người có tư duy toán học, hoạt động có tính chất trừu tượng, tiếp xúc nhiều các con số.
2. Trí thông minh không gian: Vùng làm việc đòi hỏi tầm nhìn xa và phán đoán không gian chính xác. Vùng làm việc này phù hợp với những người có trí nhớ thị giác mạnh mẽ, thường có khuynh hướng nghệ thuật. Sự phối hợp tay - mắt là một đặc trưng trong vùng làm việc này.
3. Trí thông minh vận động: Vùng làm việc dành cho những vận động cơ thể. Những hoạt động thể thao, khiêu vũ, múa v.v... cần đến loại trí tuệ này. Người ta thường nói đó loại hình mẫu cá nhân có trí thông minh vận động, có sự phát triển trí nhớ cơ bắp hơn là trí nhớ thị giác hay thính giác.
4. Trí thông minh tương tác - giao tiếp: Vùng làm việc với những tương tác người - người. Người có loại trí thông minh này luôn nhạy cảm với tâm trạng, cảm xúc, tính khí, động cơ của người khác. Đặc điểm tâm lý của trí thông minh này là tính hướng ngoại. Những người này thích thú với các cuộc bàn luận, tranh luận, làm việc theo nhóm v.v....
5. Trí thông minh nội tâm: Vùng làm việc phù hợp với người có tâm lý hướng nội. Họ thích làm việc một mình, tính tự giác cao, ham thích theo đuổi những tư tưởng cơ bản như triết học, logic học.
6. Trí thông minh tự nhiên (thiên nhiên): Vùng làm việc tiếp xúc với thế giới động vật và thực vật, chú ý đến những đặc điểm của từng loài và phân loại chúng. Năng lực quan sát thiên nhiên, năng lực nghiên cứu thế giới tự nhiên và óc tò mò về thế giới tự nhiên bao quanh... được phát triển ở những người loại hình này.
7. Trí thông minh ngôn ngữ: Vùng làm việc đòi hỏi sự vận dụng các từ ngữ, cách nói, cách viết thật chuẩn xác. Những người có trí thông minh ngôn ngữ thường học ngoại ngữ nhanh, đọc nhanh, nhớ từ lâu, kể chuyện hấp dẫn, viết lách chặt chẽ, nói năng lưu loát...
8. Trí thông minh âm nhạc: Vùng làm việc tiếp xúc nhiều với các giai điệu, âm thanh, đòi hỏi cao về độ nhạy bén của thính giác. Người có loại hình trí tuệ này có khả năng tốt về ca hát, chơi các nhạc cụ và sáng tác bài hát. Họ thường sử dụng bài hát hoặc các giai điệu để học hỏi và ghi nhớ thông tin.
Nền giáo dục hiện đại không hướng con người phải đạt tất cả các loại hình trí tuệ, bởi sự thành đạt của mỗi người có thể chỉ dựa vào hai hay nhiều trí thông minh trên là tốt rồi. Một nhà toán học lại là một cầu thủ bóng đá và sáng tác thơ; một cô giáo vừa là nhà sư phạm giỏi lại là một ca sĩ; một bác sĩ răng hàm mặt lại là một họa sĩ tài ba hoặc còn là một nhà điêu khắc hay một nhà hùng biện; một chính trị gia rất giỏi chơi đàn accordéon, viết truyện ngắn và là dịch giả của nhiều cuốn tiểu thuyết... Đó đều là những người phát triển nhiều năng lực khác nhau.
Trong thế giới hiện đại, những người đa trí tuệ sẽ "tự do" hơn những người "đơn trí tuệ".