Văn hóa những dòng sông
Đến với Đồng bằng sông Cửu Long là đến với những dòng sông. Tự ngàn xưa, những dòng sông bao giờ cũng hiền dịu, êm ái, cần mẫn và chở che. Mỗi con kinh con rạch, mỗi ngọn xẻo dòng sông đều có sự quyến rũ diệu kỳ, nhất là đối với những người đi xa, dòng sông luôn là nơi để nhớ, để thương và để hoài niệm.
Nói đến văn hóa một dòng sông, không phải chỉ có sông Hồng, sông Bạch Đằng “ngàn năm vang vọng mãi lời nước non” hay Cửu Long Giang cuộn khúc mà ngay cả con kinh, con rạch ở mỗi miền như kinh xáng Xà No, Hàm Luông, Cổ Chiên, Mang Thít, Vàm Nao… cũng đã làm nên lịch sử hào hùng và gắn liền với nền văn hóa mang sắc thái của một vùng sông nước.
Từ xa xưa, phương tiện đi lại phổ biến của ông cha ta là đường thủy, ghe xuồng được coi là một nhu cầu thiết yếu để mưu sinh, nhất là vùng Cái Nước, Năm Căn (Cà Mau), Nhà Bè (Tiền Giang), Chợ Mới (An Giang), Ngã Bảy Phụng Hiệp (Hậu Giang)… nhiều bà con đã lấy ghe làm nhà, lấy sông làm đường, chọn hai bên bờ sông để định cư, thậm chí còn lấy tên sông đặt cho tên đường, tên người, tên xóm ấp.
Xem thế, hình ảnh con thuyền và dòng sông đã ăn sâu vào tâm tư tình cảm con người biết dường nào! Dòng sông còn là tấm gương phản ánh mọi sinh hoạt, tâm lý và triết lý sống của con người: “Chớ thấy sóng cả mà ngả tay chèo”, hoặc “Sông sâu còn có kẻ dò. Nào ai lấy thước mà đo lòng người”.
Sách Lĩnh Nam chích quái đã viết “Người Việt cổ lặn giỏi, bơi tài, thạo thủy chiến, giỏi dùng thuyền” và trong quá trình sinh cơ lập nghiệp, bà con ta lại tỏ ra năng động, ít chịu khép kín, chỗ nầy làm ăn không được họ sẵn sàng xuống ghe đi tìm vùng đất mới hào sảng hơn “Gió đưa gió đẩy về rẫy ăn còng. Về sông ăn cá về đồng ăn cua”.
Hiện nay, Đồng bằng sông Cửu Long có tới 57.000km đường sông rạch chằng chịt, riêng Cà Mau chiếm 18.000km. Chính môi trường đó đã tác động đến phong tục, tập quán, tâm lý, tình cảm và nếp sinh hoạt đặc thù của một vùng sông nước. Nhiều người gọi Nam bộ là “Vùng văn minh sông rạch”.
Điều đó không sai chút nào, bởi vì trong quá trình xuôi ngược, giao lưu mua bán trên sông, ông cha ta đã đúc kết được nhiều kinh nghiệm quý báu, tạo nên những dấu ấn của một thời khai hoang mở cõi: “Chèo ghe sợ sấu cắn chân/ Xuống sông sợ đĩa, lên bờ sợ ma”, hoặc “Bìm bịp kêu nước lớn anh ơi/ Buôn bán không lời chèo chóng mỏi mê”.
Có thể nói, nơi nào ghe xuồng neo đậu là nơi đó xuất hiện những làn điệu dân ca, hò vè, tạo cho mỗi con kênh con rạch đều đi vào lời ru tiếng hát ngọt ngào, đầm ấm và còn gắn liền với văn hóa ẩm thực “Trà Ôn cá cháy lạ kỳ/ Nấu rim kho mặn món gì cũng ngon”.
Dọc theo những dòng sông Phụng Hiệp – Sóc Trăng – Ngã Bảy – Ngã Năm (Hậu Giang), nhiều đoàn ghe thương hồ xưa kia suốt ngày bồng bềnh xuôi ngược, thỉnh thoảng cất lên tiếng hò dìu dặt, trữ tình: “Ngã Bảy rẻ lối xuôi dòng/ Cà Mau Rạch Giá đau lòng chia ba/ Ngàn năm không nhạt tình ta/ Mến yêu non nươc ông cha tạo thành”.
Ngoài ra, mỗi tên sông tên rạch ở Đồng bằng sông Cửu Long, hình như lúc nào cũng lấp lánh nhiều giai thoại đáng yêu, mặc dù đó là những câu chuyện mang tính huyền thoại nhưng đôi khi nó cũng lung linh ngời sáng khiến cho các nhà khảo cứu phải bận tâm.
Đó là trường hợp song Vàm Nao ở An Giang, sông Mỹ Thanh, Cù Lao Dung ở Sóc Trăng, rồi nào Bình Thủy, Chắc Băng… nơi đoàn tùy tùng của Nguyễn Ánh đã đi qua còn để lại nhiều nghi vấn lịch sử. Chính những hình tượng thẩm mỹ đó đã thể hiện rõ những nét văn hóa đặc trưng của một vùng sông nước hữu tình.
Làng Nổi Cá Bè Châu Đốc. Tại Hậu Giang, từ khi kinh xáng Xà No ra đời, tiếp đến là kinh xáng Lái Hiếu, Ngã Nảy, Ngã Năm… đã làm thay đổi đời sống kinh tế-văn hóa- xã hội, tạo điều kiện cho sự hình thành chợ nổi Cái Răng, Phong Điền và nhiều thị tứ sầm uất trong vùng. “Kinh xáng mới đào, tàu Tây mới chạy/ Thương thì thương đại, bớ điệu chung tình…”. Nhà văn Sơn Nam gọi đó là “Văn minh kinh xáng”.
Mỗi khi đề cập đến tình yêu đôi lứa hoặc bàn về thế thái nhân tình, người ta cũng thường hay mượn hình ảnh của dòng sông, bến nước, con đò để gợi lên niềm thương nỗi nhớ “Thuyền về có nhớ bến chăng/ Bến thì một dạ khăng khăng đợi thuyền”. Môi trường sông nước còn là cái nôi êm ái để cho các chàng trai cô gái giải bày, thề thốt, nhớ nhung.
Soạn giả Viễn Châu đã cho ra đời bài Tình anh bán chiếu ngọt ngào bên bờ kinh Ngã Bảy: “Chiếu Cà Mau đã cắm sào trên bờ kinh Ngã Bảy, sao cô gái năm xưa chẳng thấy ra chào? Sông sâu bên lở bên bồi, tình anh bán chiếu trọn đời không phai”.
Nếu như cây đa, giếng nước, sân đình là cái nôi của ca dao Bắc bộ thì ở Đồng bằng sông Cửu Long, mỗi dòng sông, bến nước, mỗi hàng dừa nghiêng bóng hoặc cây bần đều gắn liền với những câu ca, câu hát mượt mà đầy chất trữ tình lãng mạn: “Bần gie đóm đậu sáng ngời. Lỡ duyên tại bậu trách trời sao nên”, hoặc như “Cái Răng, Ba Láng, Vàm Xáng, Xà No/ Anh có thương em thì cho một chiếc đò/ Để anh lên xuống thăm dò ý anh”.
Dòng sông mang đến cho con người bao niềm ước mơ và hy vọng nhưng đôi lúc cũng làm cho con người khiếp sợ và kính nể trước sự thiêng liêng và kỳ vĩ của mênh mông sóng nước. Do đó, dân thương hồ bao giờ cũng dành cho những dòng sông một gốc thiêng trong lòng, thể hiện qua việc thờ cúng “Thủy Long”.
Trăm sông đều đổ về biển cả và dù lớn hay nhỏ, mỗi dòng sông đều mang trong lòng một hồn thiêng sông nước để biến thành tình tự dân tộc. Khí thiêng đó luôn tiềm ẩn trong hoài niệm và ký ức của mỗi con người, trong nhiều áng văn thơ, câu hò, điệu lý và truyện kể dân gian. Tất cả những thứ đó đã làm nên văn hóa – văn hóa một dòng sông.
Thế nhưng, vài thập niên gần đây, do ảnh hưởng của chất thải, hóa chất và rác rưởi, tai hại nhất là rác thải nhựa đã khiến cho nhiều dòng sông bị ô nhiễm nặng nề, mặt sông trở nên eo sèo vì phải gánh vác quá sức chịu đựng, ngay cả các loài cá tôm cũng không còn chốn dung thân. Nếu như chúng ta không tích cực bảo vệ mà cứ tiếp tục ứng xử thô bạo với những dòng sông, chắc chắn dòng sông sẽ nổi giận, hai bên bờ sẽ sạt lở, nhà cửa tan tác, con người sẽ phải hoàn toàn gánh chịu.
Nguồn Người Đô Thị: http://nguoidothi.net.vn/van-hoa-nhung-dong-song-22876.html