Văn hóa pháp luật Việt Nam trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa

Trong bối cảnh đổi mới và hội nhập sâu rộng, Việt Nam đang bước vào một giai đoạn phát triển mạnh mẽ về thể chế pháp luật, hướng tới một nền tư pháp hiện đại, nhân văn và hiệu quả. Năm 2025 không chỉ là dấu mốc của sự tăng tốc về kinh tế - xã hội, mà còn là năm ghi nhận nhiều đột phá trong cải cách hệ thống pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực hình sự. Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015, qua các lần sửa đổi, bổ sung vào các năm 2017, 2024 và 2025, ngày càng thể hiện rõ vai trò là trụ cột trong việc xây dựng và hoàn thiện nền tảng pháp lý phục vụ công cuộc phòng, chống tội phạm.

Trong tiến trình này, chế định hình phạt tiền nổi lên như một biểu hiện sinh động của tư duy pháp lý hiện đại, đề cao giá trị nhân đạo, sự khoan dung và hiệu quả thực tiễn. Đây không chỉ là một biện pháp xử lý hình sự mang tính vật chất mà còn là thước đo trình độ văn hóa pháp luật, phản ánh cái nhìn nhân bản trong ứng xử với người phạm tội và cộng đồng. Việc đánh giá, hoàn thiện và phát triển chế định hình phạt tiền là đòi hỏi cấp thiết, phù hợp với định hướng của Nghị quyết số 27-NQ/TW về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới.

Ảnh minh họa

Ảnh minh họa

Hình phạt tiền là một trong các hình phạt chính hoặc bổ sung được quy định tại BLHS Việt Nam. Theo các quy định hiện hành, phạt tiền là hình thức bắt buộc người bị kết án phải nộp một khoản tiền nhất định vào ngân sách nhà nước. Hình phạt này thường được áp dụng đối với các tội phạm ít nghiêm trọng, tội có tính chất vụ lợi, đặc biệt là trong các lĩnh vực như kinh tế, tài chính, môi trường, an toàn thực phẩm, tham nhũng, buôn lậu, ma túy, v.v.

Không như các hình phạt mang tính chất giam giữ hay cách ly xã hội như tù có thời hạn hoặc chung thân, hình phạt tiền không tước đoạt quyền tự do thân thể của người bị kết án. Tuy nhiên, nó lại tác động trực tiếp đến tài sản và đời sống kinh tế của họ một hình thức trừng phạt có tính khả thi cao, chi phí thấp cho xã hội, đồng thời vẫn đảm bảo tính răn đe cần thiết.

Qua các lần sửa đổi gần đây, đặc biệt là năm 2024 và 2025, BLHS đã mở rộng đáng kể phạm vi áp dụng hình phạt tiền, tăng mức phạt ở nhiều nhóm tội phạm, và đồng thời đề cao tính cá thể hóa trong áp dụng. Việc điều chỉnh này phù hợp với xu hướng pháp lý tiến bộ: lấy giáo dục làm trọng tâm, nhấn mạnh khắc phục hậu quả hơn là trừng trị thuần túy, đồng thời giảm thiểu tình trạng giam giữ không cần thiết vốn gây tốn kém và tạo áp lực lớn cho hệ thống trại giam.

Đáng chú ý, nhiều quy định mới còn thể hiện rõ nét tinh thần khoan dung, hướng thiện, phản ánh bản sắc văn hóa pháp luật Việt Nam nơi mà hình phạt không chỉ để trừng trị mà còn để cải hóa, tạo điều kiện cho người vi phạm sớm hòa nhập cộng đồng, làm lại cuộc đời.

Dù có nhiều điểm tích cực, song thực tế cho thấy hình phạt tiền vẫn chưa được sử dụng tương xứng với tiềm năng của nó. Nhiều tội danh có tính chất vụ lợi cao như trốn thuế, tham ô, nhận hối lộ... lại ít được áp dụng phạt tiền như một hình phạt chính hoặc bổ sung. Điều này phần nào phản ánh tư duy xử lý còn nặng về hình phạt tù, chưa mạnh dạn chuyển đổi sang các biện pháp thay thế nhẹ nhàng, linh hoạt hơn.

Một số bản án cho thấy việc áp dụng hình phạt tiền giữa các bị cáo trong cùng vụ án còn mang tính ước lệ. Mức phạt chưa luôn phản ánh đúng mức độ lỗi, vai trò của từng người, khả năng kinh tế và thái độ khắc phục hậu quả. Điều này ảnh hưởng đến tính công bằng và hiệu quả giáo dục của bản án, đồng thời tạo ra cảm giác thiếu minh bạch trong nhận thức của công chúng.

Không ít trường hợp, bị cáo có nhân thân tốt, có khả năng bồi thường, có nơi cư trú rõ ràng nhưng vẫn bị tuyên án treo hoặc tù có thời hạn. Việc này không những làm tăng gánh nặng cho hệ thống trại giam mà còn lãng phí nguồn lực cải tạo, trong khi hình phạt tiền trong bối cảnh đó có thể vừa răn đe, vừa mang lại hiệu quả kinh tế và xã hội cao hơn.

Một trong những vướng mắc lớn là chưa có cơ chế hiệu quả để xác minh tài sản và thu nhập của người bị kết án trước khi quyết định hình phạt tiền. Điều này gây khó khăn cho công tác thi hành án, đặc biệt khi người bị kết án cố tình che giấu hoặc không hợp tác. Việc này đòi hỏi sự vào cuộc của hệ thống cơ quan điều tra, thi hành án và cơ quan quản lý tài chính với các quy trình chặt chẽ hơn.

Trong một xã hội pháp quyền, việc xử lý tội phạm không chỉ nhắm vào trừng phạt mà còn phải góp phần xây dựng một trật tự pháp lý ổn định, công bằng và nhân bản. Hình phạt tiền chính là biểu hiện của tư duy pháp quyền hiện đại: tránh làm tổn thương không cần thiết đến nhân phẩm và quyền tự do thân thể, mà vẫn bảo đảm được yêu cầu răn đe và giáo dục.

Phạt tiền phù hợp với nguyên tắc nhân đạo một giá trị cốt lõi của văn hóa pháp luật Việt Nam. Thay vì tước đi quyền sống tự do, hình phạt tiền cho phép người phạm tội có cơ hội sửa sai mà không bị kỳ thị, không bị cắt đứt quan hệ xã hội, không ảnh hưởng quá sâu đến gia đình và người thân. Điều này giúp quá trình tái hòa nhập diễn ra tự nhiên, hiệu quả hơn.

Việc mở rộng và hoàn thiện chế định hình phạt tiền cũng là cách nuôi dưỡng lòng khoan dung trong tư duy pháp luật một đặc điểm quan trọng trong nền văn hóa Việt Nam. Thay vì áp dụng đồng loạt các biện pháp mạnh tay, việc lựa chọn chế tài mềm mại hơn khi có thể là biểu hiện của một nền tư pháp biết cân bằng giữa nghiêm khắc và nhân ái.

Việc quy định rõ khái niệm không chỉ tạo cơ sở pháp lý vững chắc mà còn góp phần thống nhất nhận thức trong toàn hệ thống tư pháp hình sự, nâng cao chất lượng xét xử và thi hành án.

Trong bối cảnh kinh tế thị trường phát triển nhanh, nhiều hành vi phạm tội có động cơ vụ lợi, nhất là trong các lĩnh vực tài chính, chứng khoán, bảo hiểm, kinh doanh bất động sản, môi trường... Do đó, cần nghiên cứu mở rộng phạm vi các tội có thể áp dụng hình phạt tiền là hình phạt chính, đặc biệt với những trường hợp không có yếu tố bạo lực hoặc gây nguy hiểm nghiêm trọng cho xã hội.

Đồng thời, cần mạnh dạn xem xét phạt tiền thay cho án tù trong những trường hợp người phạm tội có nhân thân tốt, thành khẩn, có khả năng khắc phục hậu quả, từ đó khuyến khích hành vi tích cực và giảm tải cho hệ thống nhà giam, phù hợp với xu thế tư pháp quốc tế hiện đại.

So với hình phạt tù, hình phạt tiền ít xâm phạm đến quyền tự do cá nhân và nhân phẩm của người bị kết án, qua đó giúp người phạm tội không bị “gắn mác” tội phạm trong đời sống xã hội một cách nặng nề. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Việt Nam đang hướng tới một nền pháp quyền đề cao nhân quyền và công lý phục hồi.

Việc tăng cường áp dụng phạt tiền sẽ giúp giảm thiểu tình trạng quá tải tại các trại giam, tiết kiệm chi phí cho ngân sách nhà nước, đồng thời giữ người phạm tội trong cộng đồng để có điều kiện làm việc, bồi thường thiệt hại, tái hòa nhập nhanh hơn.

Thực tiễn quốc tế cũng chứng minh rằng, hình phạt tù thường chỉ nên là biện pháp cuối cùng, dành cho các hành vi có mức độ nguy hiểm cao, gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Với các tội danh ít nghiêm trọng, hướng tới các biện pháp thay thế như phạt tiền là xu hướng phổ biến ở các nước có hệ thống pháp luật tiến bộ.

Hình phạt tiền góp phần xây dựng ý thức trách nhiệm của người phạm tội đối với hành vi của mình và với cộng đồng. Việc nộp phạt thể hiện hành vi thừa nhận lỗi lầm, chịu trách nhiệm vật chất cụ thể một cách thức thể hiện văn minh và phù hợp với lối sống hiện đại, nơi mọi hành vi đều có hệ quả rõ ràng và công khai.

Hình phạt tiền, xét từ cả phương diện lý luận lẫn thực tiễn, là một chế định hình sự có giá trị nhân văn sâu sắc, thể hiện rõ nét đặc trưng của nền văn hóa pháp lý Việt Nam trong thời kỳ đổi mới và hội nhập. Việc tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt tiền là một phần không thể tách rời trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Trong tương lai, khi văn hóa pháp luật được nâng cao, xã hội hướng tới sự công bằng, nhân đạo và phát triển bền vững, thì hình phạt tiền không chỉ là một biện pháp chế tài hiệu quả mà còn là biểu tượng của một nền tư pháp văn minh, biết kết hợp nhuần nhuyễn giữa pháp luật và đạo lý, giữa kỷ cương và lòng nhân ái những giá trị cốt lõi của nền văn hóa Việt Nam hiện đại.

(*) Trường Sĩ quan Lục quân 1, Bộ Quốc phòng

Thượng tá, ThS Nguyễn Hữu Quý (*)

Nguồn VHPT: https://vanhoavaphattrien.vn/van-hoa-phap-luat-viet-nam-trong-tien-trinh-xay-dung-nha-nuoc-phap-quyen-xa-hoi-chu-nghia-a30686.html