Văn hóa Việt Nam: Thống nhất trong đa dạng - sức mạnh mềm của dân tộc
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, văn hóa trở thành sức mạnh mềm của mỗi quốc gia. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, đa tôn giáo, đa dạng vùng miền, văn hóa Việt Nam mang tính đa dạng nhưng vẫn duy trì được một nền tảng thống nhất thể hiện qua các giá trị cốt lõi được hun đúc qua hàng nghìn năm lịch sử.
Sáng 30/9, tại Hà Nội, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo khoa học “Xây dựng nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng giai đoạn 1975-2025”.
Bên cạnh tính đa dạng, văn hóa Việt Nam thể hiện rõ một trục thống nhất
PGS.TS Nguyễn Duy Bắc, Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh cho rằng, sự thống nhất trong đa dạng là đặc trưng, đồng thời là quy luật phát triển, là tiềm năng, sức mạnh nội sinh, tính hấp dẫn của nền văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên, trong bối cảnh đổi mới và hội nhập quốc tế mạnh mẽ, đặc trưng đó cùng bản sắc văn hóa các dân tộc đang đối mặt với nhiều thách thức, có nguy cơ bị mai một, biến dạng.
Bên cạnh đó, chính sách và việc triển khai chính sách liên quan đến xây dựng nền văn hóa thống nhất trong đa dạng chưa được quan tâm thỏa đáng, thiếu kết nối và chưa đồng bộ với hệ thống chính sách văn hóa, chính sách phát triển chung, cũng đang là một rào cản trong quá trình xây dựng nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng. Vì vậy, việc nghiên cứu, đánh giá thực tiễn xây dựng nền văn hóa Việt Nam thống nhất trong đa dạng sau 50 năm đất nước thống nhất để đề xuất các giải pháp xử lý đúng đắn, hài hòa mối quan hệ giữa tính thống nhất và tính đa dạng của văn hóa Việt Nam, góp phần tạo nền tảng cho sự phát triển đất nước trong bối cảnh mới là vấn đề có ý nghĩa thực tiễn cấp bách hiện nay.
PGS.TS Phạm Duy Đức, Viện Văn hóa và Phát triển cho rằng, Việt Nam là một quốc gia có nền văn hóa đa dạng bậc nhất khu vực Đông Nam Á. Tính đa dạng này bắt nguồn từ nhiều yếu tố, trong đó nổi bật là:
Đa dạng dân tộc: Việt Nam có 54 dân tộc anh em cùng sinh sống, mỗi dân tộc lại mang trong mình những giá trị, bản sắc văn hóa riêng biệt: từ ngôn ngữ, trang phục, tín ngưỡng, lễ hội đến tập quán canh tác và sinh hoạt.

Lễ cưới của người Pà Thẻn là nét văn hóa đặc sắc, nổi bật của cư dân sinh sống nơi địa đầu Tổ quốc Hà Giang.
Đa dạng vùng miền: Sự phân hóa vùng miền Bắc -Trung - Nam cùng với điều kiện tự nhiên và lịch sử riêng biệt đã hình thành nên các vùng văn hóa tiêu biểu.
Văn hóa Bắc bộ gắn liền với nền văn minh lúa nước, đình làng, ca trù, chèo; Văn hóa Trung bộ đặc trưng bởi sự giao thoa văn hóa Chăm - Việt, kiến trúc cung đình Huế, dân ca bài chòi; Văn hóa Nam bộ chịu ảnh hưởng mạnh từ văn hóa Khmer, văn hóa di dân, với các loại hình nghệ thuật như đờn ca tài tử, cải lương.
Đa dạng tín ngưỡng, tôn giáo và phong tục: Từ tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, thờ Mẫu - vốn là đặc trưng nổi bật của văn hóa Việt - đến các tôn giáo lớn như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Hồi giáo… đều tồn tại song hành trong không gian văn hóa Việt Nam.
Bên cạnh tính đa dạng, văn hóa Việt Nam cũng thể hiện rõ một trục thống nhất mạnh mẽ, cụ thể thống nhất về giá trị cốt lõi. Bất chấp sự khác biệt về vùng miền, dân tộc hay tôn giáo, người Việt đều có lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, chống ngoại xâm; Truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, tôn trọng tổ tiên, hiếu nghĩa với gia đình; Lối sống cộng đồng, tính khoan dung, cần cù, sáng tạo và trọng nghĩa tình.
Ngoài ra văn hóa Việt Nam còn thống nhất về biểu tượng, ngôn ngữ và thiết chế
5 quan điểm cốt lõi trong chỉ đạo phát triển văn hóa thống nhất trong đa dạng từ các văn kiện
Đảng và Nhà nước luôn nhấn mạnh, tinh thần “thống nhất trong đa dạng, đa dạng trong thống nhất”, coi đó là nguyên tắc trong hoạch định và thực thi chính sách văn hóa. Đó cũng là điều kiện để xây dựng một nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc - như mục tiêu xuyên suốt được khẳng định trong các văn kiện Đại hội Đảng từ khóa VIII đến nay.
Theo PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội, có thể khái quát 5 quan điểm cốt lõi trong chỉ đạo phát triển văn hóa thống nhất trong đa dạng từ các văn kiện.
Thống nhất về giá trị, không phải về hình thức - tức là thống nhất trên nền tảng cốt lõi như yêu nước, nhân ái, trách nhiệm, trung thực, trí tuệ, nhưng tôn trọng sự đa dạng trong biểu hiện văn hóa.

PGS.TS Bùi Hoài Sơn, Ủy viên Thường trực Ủy ban Văn hóa và Giáo dục của Quốc hội phát biểu tại hội thảo.
Đa dạng không phải là biệt lập, mà là thành tố cấu thành bản sắc Việt Nam thống nhất, cần được lồng ghép vào chiến lược quốc gia, chứ không tách biệt như vấn đề “của cộng đồng nhỏ”. Xây dựng môi trường thể chế là điều kiện tiên quyết để các cộng đồng có thể thực hành, sáng tạo, truyền dạy văn hóa một cách tự do trong khuôn khổ pháp luật.
Chuyển từ bảo tồn sang phát triển và hội nhập, tức là tạo điều kiện để văn hóa địa phương, dân tộc thiểu số, nghệ thuật đương đại có khả năng cạnh tranh và đóng góp vào kinh tế văn hóa - sáng tạo.
“Đưa văn hóa vào mọi lĩnh vực phát triển - chính trị, kinh tế, giáo dục, công nghệ, ngoại giao… theo hướng “thấm sâu”, đúng như tinh thần Tổng Bí thư đã nêu”, PGS.TS Bùi Hoài Sơn nói.
Xây dựng hệ giá trị văn hóa Việt Nam mang tính nền tảng
Theo PGS.TS Phạm Duy Đức, phát huy mối quan hệ giữa thống nhất và đa dạng trước hết cần xây dựng hệ giá trị văn hóa Việt Nam mang tính nền tảng, có khả năng quy tụ và điều tiết sự đa dạng một cách tích cực. Trên cơ sở đó, chính sách văn hóa phải toàn diện, linh hoạt và bao trùm, đảm bảo quyền được bảo tồn và lan tỏa văn hóa của mọi dân tộc, đồng thời chú trọng đầu tư cho gìn giữ, số hóa và truyền thống di sản văn hóa, nhất là của các cộng đồng thiểu số và vùng miền đặc thù.
Một phương diện quan trọng khác là tăng cường giáo dục bản sắc dân tộc, tinh thần tôn trọng sự khác biệt và ý thức đoàn kết trong đa dạng cho thế hệ trẻ, giúp họ tự tin hội nhập mà vẫn gắn bó với nguồn cội. Đồng thời, cần khuyến khích cộng đồng địa phương chủ động bảo tồn, để văn hóa dân gian và văn hóa cộng đồng “sống” trong đời sống, không chỉ tồn tại như hiện vật hay lễ hội hình thức. Việc tạo diễn đàn giao lưu, hợp tác văn hóa giữa các vùng miền, dân tộc sẽ góp phần làm phong phú và khẳng định sức mạnh bền vững của văn hóa Việt Nam.
TS. Vũ Diệu Trung, Giám đốc Trung tâm dữ liệu di sản văn hóa đề cập đến một khía cạnh khác, để bảo tồn di sản văn hóa và gìn giữ sự đa dạng văn hóa cần dựa trên những nguyên tắc nhất định đó là: “Tôn trọng điều kiện lịch sử, địa lý và tập quán canh tác đã hình thành nên các loại hình di sản văn hóa tiêu biểu của từng dân tộc. Đặc thù vùng miền và đặc trưng văn hóa các dân tộc sẽ khác nhau, nhưng đời sống vật chất được đảm bảo thì đời sống tinh thần mới phong phú và đa dạng. Muốn phát triển văn hóa thì đời sống vật chất cộng đồng phải được nâng lên, khắc phục được tình trạng đói nghèo, thu hẹp khoảng cách về mức sống, trình độ phát triển kinh tế... Bảo tồn và phát huy di sản văn hóa phải đáp ứng nhu cầu về văn hóa tâm linh của chủ thể văn hóa, thực hiện nghiêm túc chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nước”.

Lễ hội Mở kho lúa của dân tộc Brâu, tỉnh Kom Tum cũ thường diễn ra trong 2 ngày vào tháng 10 hoặc tháng 11 hằng năm.
TS. Nguyễn Tiến Thư, Phó Viện trưởng Viện Văn hóa và Phát triển, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đưa ra giải pháp toàn diện, lâu dài. Trước hết, phải nhận thức đúng về mối quan hệ giữa thống nhất và đa dạng. Thống nhất không có nghĩa là đồng hóa hay xóa bỏ khác biệt, mà là sự kết nối hài hòa các yếu tố văn hóa đa dạng trên nền tảng giá trị cốt lõi chung, phản ánh bản sắc quốc gia trong khi vẫn tôn trọng tính riêng biệt và quyền sáng tạo của từng cộng đồng. Tính đa dạng không phải trở ngại mà là nguồn lực thúc đẩy sáng tạo, làm giàu thêm bản sắc Việt Nam.
Tiếp đó, giáo dục văn hóa, nhất là về giá trị truyền thống, lịch sử và bản sắc dân tộc, giữ vai trò quan trọng trong việc hình thành ý thức thống nhất trong thế hệ trẻ. Song song, cần xây dựng chính sách văn hóa toàn diện, nhất quán và mang tầm chiến lược, trong đó thể chế hóa nguyên tắc “thống nhất trong đa dạng” thành trụ cột để điều chỉnh từ bảo tồn di sản, phát triển công nghiệp văn hóa đến hợp tác quốc tế.
Việc phát huy vai trò cộng đồng, nghệ nhân, già làng, trưởng bản cũng hết sức quan trọng, bởi họ là chủ thể sáng tạo và gìn giữ văn hóa, cần được tôn vinh, hỗ trợ để di sản tồn tại trong đời sống chứ không chỉ trong tư liệu. Bên cạnh đó, ứng dụng công nghệ số là con đường tất yếu để số hóa, kết nối và lan tỏa giá trị văn hóa, đồng thời mở rộng khả năng tiếp cận tri thức cho mọi người dân. Cuối cùng, tăng cường hợp tác quốc tế giúp khẳng định mô hình “thống nhất trong đa dạng” trên trường quốc tế, quảng bá hình ảnh Việt Nam, đồng thời tiếp thu kinh nghiệm quản trị văn hóa hiện đại.
“Như vậy, có thể thấy rằng tính thống nhất trong đa dạng không chỉ là di sản quá khứ mà còn là tầm nhìn cho tương lai, bảo đảm cho văn hóa Việt Nam vừa giữ được bản sắc riêng, vừa hội nhập sâu rộng với thế giới”, TS. Nguyễn Tiến Thư nhận xét.