Về miền 'kẻ', ghé miền 'càng' bên dòng Ô Lâu

Huyện Hải Lăng (Quảng Trị) - vùng đất thấp trũng nhưng lạ thay, lại là nơi hội tụ những tầng văn hóa đặc sắc của xứ Đàng Trong. Những cái tên bắt đầu bằng chữ 'kẻ' - kẻ Diên, kẻ Vịnh, kẻ Văn, kẻ Lạng… như âm vọng của thuở xa xưa còn in đậm trên từng bảng tên làng, từng nếp chợ chiều.

“Kẻ”, theo lời nhà nghiên cứu Trần Đại Vinh, nguyên Chủ tịch Hội Văn nghệ dân gian Thừa Thiên Huế, là một từ cổ thuần Việt, chỉ làng, chỉ xóm - như kẻ Sặt Hưng Yên, kẻ Chợ Thăng Long. Những ai sinh ra từ xứ kẻ bên dòng Ô Lâu của vùng đất thấp trũng này, luôn mang theo mình khí chất riêng: mộc mạc mà kiên cường, chân thành mà sâu sắc…

Dòng Ô Lâu thơ mộng đổ về các miền “kẻ”, miền “càng” trù phú bao đời.

Dòng Ô Lâu thơ mộng đổ về các miền “kẻ”, miền “càng” trù phú bao đời.

Từ “kẻ”…

Tôi về kẻ Diên - xã Hải Thọ, nay vừa sáp nhập vào thị trấn Diên Sanh. Ông Lê Xuân Trường, Chủ tịch UBND thị trấn chia sẻ, xưa ở vùng quê này từng tồn tại, phát triển một ngôi chợ rất có tiếng, gọi là chợ kẻ Diên. Thuở đó, chợ là của người trồng lúa, người bắt cá, người hái rau, người gánh gồng từ khắp các mạn sông trong vùng đổ về.

Có câu ca dao xứ này từng được Giáo sư Trần Quốc Vượng ngợi ca là hay bậc nhất miền Trung: “Mười cái trứng để trong rổ đó/ Thằng mặt cắt lôi mất một cái/ Con quạ tha mất một cái/ Con diều hâu bắt mất một cái… Đừng than phận khó ai ơi/ Còn da lông mọc, còn chồi nảy cây”. Một tiếng “ai ơi” như chạm vào tận đáy lòng. Bao năm tháng gió Lào thổi rát mặt người, nắng cháy đồng trơ gốc rạ, người kẻ Diên vẫn sống, vẫn tin vào mầm chồi sẽ mọc.

Trong câu chuyện về làng xã của ông Lê Xuân Trường hôm nay, “người ta thường nghĩ quê nghèo thì văn hóa nghèo. Nhưng nếu ngồi xuống mà nghe một buổi chợ kẻ Diên xưa, đọc một câu đối ở kẻ Văn, hay ăn miếng chột nưa kẻ Lạng, người ta sẽ nghĩ khác về vùng đất Hải Lăng”. Ông bảo, chính từ cái nghèo mà dân mình biết yêu chữ nghĩa, biết quý nhau, biết sống nương tựa và gìn giữ.

Từ kẻ Diên xuôi xuống, gặp kẻ Vịnh, sau năm 1975 thuộc xã Hải Hòa (nay là xã Hải Phong), nơi được ví như vựa lúa của Hải Lăng. Cánh đồng bạt ngàn, cá sông tươi rói, sắn càng thơm bùi, tất cả tạo nên một vùng quê trù phú, mà cũng đầy nội lực. Kẻ Văn thuộc xã Hải Tân (nay là xã Hải Phong), còn lưu dấu trong văn chương cổ với hai câu đối trứ danh. Một trong đó viết rằng: “Phép tắc trăm vua không đổi, nước có vua tôi, nhà có cha con”, đủ cho thấy xứ này trọng chữ, trọng lễ, trọng nghĩa. Và đến kẻ Lạng thuộc làng Lương Điền, xã Hải Sơn, không thể không nhắc đến chợ hôm Lạng với đặc sản chột nưa đã từng làm xao lòng bao bà nội trợ. Câu ca truyền đời vẫn còn: “Nhất thuốc Phù Lai, nhì khoai Tân Trường, ba nưa kẻ Lạng, bốn sắn càng Câu Nhi”.

Giờ đây, chợ hôm không còn nữa, nhưng cây phong lưu trồng trước đình làng Lương Điền vẫn còn nguyên tán lá xanh um, bóng mát trải dài như tấm chăn của tổ tiên phủ lên bao đời người làng. Ông Nguyễn Văn Hiếu, 74 tuổi, ở làng này kể lại lời ông nội, một người từng làm quan ở Lào, rằng: “Cây phong lưu là để mong cho dân làng được yên ổn, đủ đầy, không bon chen vật lộn”. Cây ấy mỗi chiều khép lá, mỗi sớm lại vươn lên, như nhịp sống của người quê, biết nghỉ ngơi, biết lao động, biết vươn tới.

…đến “càng”

Xa hơn các làng kẻ là những xóm nhỏ mang cái tên kỳ lạ: càng. Như những cánh tay nối dài của làng mẹ, các càng mọc ra từ lòng đất lũ, lặng lẽ nhưng kiêu hãnh. Càng Câu Nhi, càng Mỹ Chánh, càng An Thơ, càng Trung Đơn…, mỗi tên gọi như một vết khắc thời gian trên thân thể đất đai. Không ai biết chính xác chữ “càng” từ đâu ra. Có người bảo giống càng cua vươn ra từ thân mình làng mẹ. Có người lại kể, xưa kia người làng chọn đất cao để lập làng chính, rồi đưa người ra giữ đất, giữ lúa ở vùng thấp, lâu ngày thành xóm, thành càng…

Theo lời hẹn, ông Nguyễn Khánh Vũ, Bí thư Huyện ủy Hải Lăng đưa tôi đến thăm Càng Cây Da, xã Hải Thọ, nơi có ngôi nhà thờ cổ kính bên bờ Ô Giang (một nhánh của Ô Lâu), mỗi chiều lại ngân tiếng chuông, như lời cầu nguyện cho vùng quê luôn giữ được vẻ thanh bình xưa cũ. Bà Hồ Thị Lành, 72 tuổi, một người dân sinh sống ở đây, vừa xắt rau muống, vừa nói: “Ở càng cực thật, nhưng sống chậm hơn, tình nghĩa hơn. Tui đi Sài Gòn một lần, thấy cái gì cũng nhanh, cũng lạ, nhưng lại nhớ tiếng dế kêu bên hè”. Càng nghèo, nhưng càng không bạc. Người từ càng đi xa vẫn tìm đường về, bởi như lời bà Lành, “nơi cội rễ chưa bao giờ tàn lụi thì con người luôn tìm được mình”.

Đứng trước đồng ruộng mênh mông, thơm mùi lúa chín, ông Nguyễn Khánh Vũ khoanh một vòng tay phía trước, cho hay, càng Hưng Nhơn, càng Hội Điền từng bị cô lập vào mùa lũ, nay đã có đê bao, có điện lưới, có đường bê tông và tiếng cười của những đứa trẻ đến trường trên xe đạp mới. “Những người trẻ lớn lên từ càng, có người ra đi lập nghiệp phương xa, có người trở về dựng nhà nơi bờ sông quen thuộc. Họ mang theo cả hiện đại lẫn hoài niệm. Có người nói ở càng là nghèo. Nhưng kỳ thực, sống ở càng là sống trong một dòng chảy khác, chậm hơn, sâu hơn và đầy kết nối với thiên nhiên, với tổ tiên, với cội nguồn”, ông Vũ nói với tôi mà như nói với chính mình.

Trẻ em ở vùng “càng”.

Trẻ em ở vùng “càng”.

Giữ hồn quê

Từ những làng kẻ cổ xưa đến những càng xa hút mắt, vùng quê bên bờ Ô Lâu như một dải đất vừa thơ vừa thắm. Nó không ồn ào, không chói lóa. Nó nằm yên trong trí nhớ người Quảng Trị, trong tiếng ru của bà, tiếng chày giã gạo, trong khói bếp chiều và cả trong lời ca dao xứ sở.

Tôi đứng bên triền cát thoai thoải, nơi dòng Ô Lâu lặng lẽ trôi qua như chưa từng vội vã. Mặt sông phẳng như gương, phản chiếu những vòm tre rì rào và bóng dáng lũ trẻ tắm sông, ríu ran như dăm ba con chim sẻ nhỏ. Một cánh cò lướt qua mặt nước, trắng lóa. Phía bên kia là Thừa Thiên Huế - xứ kẻ Huế, bên này là Quảng Trị - nơi những làng kẻ, làng càng như những vết son cũ vẫn còn nguyên trên mặt đất.

Ai từng một lần về đây, qua con đường cái quan cũ, nghe câu chuyện chàng thư sinh xứ Nghệ qua đò Ba Bến để vào kinh ứng thí, mà lòng không xao động, ấy là chưa hiểu được người xưa sống thế nào, yêu ra sao, giữ quê mình bằng những điều giản dị nhưng thiêng liêng đến thế nào. Còn với người bản xứ, những người chưa bao giờ rời xa dòng Ô Lâu, thì việc sống ở đây, giữ lấy nếp cũ, gìn giữ từng tên “kẻ”, từng bóng “càng”, chính là một hình thức gìn giữ ký ức dân tộc, để khi ta ngẩng đầu nhìn về phía tổ tiên, vẫn có thể mỉm cười mà nói rằng, chúng con vẫn ở đây, vẫn tiếp tục gìn giữ, dựng xây, phát triển quê mình như thuở cha ông xưa…

Thanh Bình

Nguồn ANTG: https://antgct.cand.com.vn/so-tay/ve-mien-ke-ghe-mien-cang-ben-dong-o-lau-i770267/