Vì đâu Tô Hoài là người 'hiểu hết sự đời'?

Tô Hoài không chỉ có 'Dế mèn phiêu lưu ký', không chỉ có những câu chuyện đồng thoại viết cho thiếu nhi. Đó là một vinh dự, cũng là một thiệt thòi của ông. Trong giới văn chương, người ta càng biết rõ điều đó.

Nhà văn Tô Hoài vừa qua đời hôm 6-7 ở tuổi 94. Để có cái nhìn thấu đáo về văn nghiệp và con người ông, chúng tôi có cuộc trò chuyện với nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân, người có nghiên cứu sâu về Tô Hoài và cũng là một người họ hàng xa về phía mẹ của Tô Hoài (Tô Hoài là con cháu họ ngoại của dòng họ Lại ở Nghĩa Đô, Hà Nội).

Người ven thành viết về vùng ven thành

Sinh thời, nhà văn Tô Hoài rất gắn bó với đất Nghĩa Đô (trước kia là làng Trung Nha, cũng gọi là làng Nghè, trước thuộc Hà Đông, nay thuộc Hà Nội), nơi ông sinh ra. Những năm cuối đời, ông sống ở ngôi nhà tập thể của người con gái đầu ở phường Nghĩa Đô còn nhiều hơn sống ở ngôi nhà của vợ chồng ông ở trong phố Hà Nội. Theo ông, đất Nghĩa Đô có ý nghĩa như thế nào trong cuộc đời Tô Hoài?

Quê hương có ý nghĩa đối với các nhà văn Việt Nam như thế nào thì đất Nghĩa Đô có ý nghĩa với Tô Hoài như thế. Riêng Tô Hoài, ông gắn bó với quê mẹ Nghĩa Đô, hơn hẳn với quê bố ở huyện Thanh Oai (Hà Tây cũ, nay thuộc Hà Nội). Bố ông từ quê Thanh Oai ra Hà Nội lập nghiệp, gặp gỡ và kết hôn với mẹ Tô Hoài, sinh ra ông tại nhà ông bà ngoại ở Nghĩa Đô. Tô Hoài sinh ra và lớn lên tại đây. Vì thế, trong cả cuộc đời, chỉ trừ giai đoạn đi kháng chiến từ năm 1947 đến năm 1954, còn lại, cuộc sống của Tô Hoài hầu như không rời xa đất Nghĩa Đô.

Nghĩa Đô trước đây là đất “vùng ven”. Người ta nói những trang viết của Tô Hoài vẽ nên một Hà Nội của người dân quê ngoại thành, bình dân, trái với một Hà Nội “sang hơn” trong văn Nguyễn Tuân. Hà Nội của Tô Hoài có gì đặc biệt?

Theo tôi, trong các trang văn Tô Hoài, các nhà xã hội học sẽ tìm được dữ liệu về đời sống sinh hoạt của cư dân ngoại thành và nội thành Hà Nội nhiều hơn trong văn Nguyễn Tuân. Trong văn Tô Hoài, diện mạo đời sống ấy rất đa dạng, đa tạp, đậm đặc, nhiều sắc thái và nhiều chi tiết, bao quát nhiều đổi thay từ những năm 1940 đến những năm 2000.

Cái sang trong văn Nguyễn Tuân là cái sang của giới văn nghệ sĩ, có thể chơi sang chứ không giàu sang. Còn về cái giàu sang thật của tầng lớp thượng lưu trong xã hội Việt Nam qua các thời đại thì chưa nhà văn Việt Nam hiện đại nào nào viết được một cái gì ngang cỡ Thượng Kinh ký sự của Lê Hữu Trác khi xưa.

Tô Hoài, từ năm 1972, đã có tập truyện nhan đề Người ven thành. Ông viết về cả dân phố lẫn dân quê, nhưng viết về người ven thành nhiều hơn. Trong suốt sự nghiệp sáng tác của mình, Tô Hoài còn viết về nhiều đề tài khác nữa, người Tây Bắc, người Việt Bắc, v.v. Nhưng chính người ven thành mới là đề tài ông có hiểu biết sâu sắc nhất và cũng được ông viết nhiều nhất.

Một lần trò chuyện với tôi, Tô Hoài bảo: Ven nội là vùng nông thôn nửa quê nửa phố, một nông thôn khác so với những vùng nông thôn không ở gần thành phố lớn. Cư dân ven thành gồm cả những người làm nông nghiệp, trồng trọt, chăn nuôi... lẫn những người hàng ngày lên thành phố làm viên chức, làm thuê, làm các nghề dịch vụ như lái xe, nấu ăn, bán hàng, kế toán, làm thợ các nhà máy, xí nghiệp... Sự pha trộn đó tạo ra một nếp sống khác so với cư dân nông nghiệp thuần túy ở vùng sâu, vùng xa.

Tô Hoài nhận xét: Nhiều tục lệ, thậm chí hủ tục, được lưu giữ ở những vùng ven thành này lâu hơn nhiều so với những vùng nông thôn xa xôi khác. Vì người dân các vùng khác chỉ làm nghề nông, ít cơ hội kiếm tiền bằng nghề khác. Trong khi đó, một người phụ nữ ven nội, không cần có học vấn gì, sức khỏe bình thường thì chỉ với một gánh rau vào phố là đã có thể kiếm sống, tự nuôi sống. Mức sống khá hơn so với vùng thuần nông khiến họ duy trì được những phong tục lâu đời của làng quê.

Theo ghi chép của nhà phê bình Vương Trí Nhàn, năm 1994, Tô Hoài từng phát biểu trong hội nghị những người viết văn trẻ, rằng ông “vẫn cho rằng chưa viết được gì hơn Dế mèn phiêu lưu ký!

Theo ghi chép của nhà phê bình Vương Trí Nhàn, năm 1994, Tô Hoài từng phát biểu trong hội nghị những người viết văn trẻ, rằng ông “vẫn cho rằng chưa viết được gì hơn Dế mèn phiêu lưu ký!

Cần phải ghi chú thế này về thành công của Dế mèn phiêu lưu ký: Thành công đó có được là đặt trong khuôn khổ sự liên kết văn hóa giữa các nước XHCN và giữa các nước thuộc thế giới thứ ba, thông qua hoạt động của Hội Nhà văn Á-Phi. Các tác giả, tác phẩm Việt Nam được giới thiệu ra quốc tế là do sự đề cử của Ban Chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam và được các nhà lãnh đạo Việt Nam duyệt y. Tất nhiên là đi qua cửa ấy còn có nhiều tác phẩm tác giả khác, nhưng Dế mèn may mắn được dịch, được trẻ em Liên Xô và Đông Âu yêu thích. Do thế cuộc du ngoạn của chú Dế mèn mới được mở ra rộng lớn.

Bản thân Tô Hoài, ngay từ những năm 1940 đã có những tác phẩm rất chắc chắn, không phải truyện thiếu nhi mà là viết theo xu hướng tả chân xã hội, “hiện thực phê phán”, giống như các bạn văn cùng thời như Nam Cao, Nguyên Hồng, Kim Lân, Bùi Hiển... Họ có điểm chung là viết văn với ý hướng khảo tả con người và xã hội, ngôn ngữ văn chương thì họ sử dụng nhiều phương ngữ miền bắc và rất có ý thức mô tả lời ăn tiếng nói của con người miền bắc, - điều mà trước đó Nguyễn Công Hoan, Ngô Tất Tố, Vũ Trọng Phụng... đã làm. Tôi hình dung đây là xu hướng văn xuôi miêu tả phong tục, một trong những mạch văn chủ đạo của những cây bút viết văn xuôi ở miền bắc, từ những năm 1930 trở đi.

Nhưng những tác phẩm “chắc chắn” đó lại không nổi tiếng bằng Dế mèn phiêu lưu ký. Nhớ nhà phê bình Hoàng Ngọc Hiến từng có câu đại ý: “Dế mèn phiêu lưu ký quá nổi tiếng là một thiệt thòi của Tô Hoài. Thật ra, Giăng thề của Tô Hoài là một kiệt tác”. Ông nghĩ sao?

Hoàng Ngọc Hiến đã nhìn ra một nghịch lý thú vị trong đời sống văn chương. Nên nhớ là đời sống văn chương chứa nhiều nghịch lý lắm. Giá trị tác phẩm là một chuyện, nhưng độ nổi tiếng, sự thành công của tác phẩm trong công chúng lại là một chuyện, có thể hoàn toàn khác.

“Tô Hoài hiểu hết sự đời”, điều này có không ít người trong giới văn chương khẳng định. Điều đó đúng không, và phải hiểu “sự đời” ở đây là như thế nào?

Tô Hoài từng vào đời, vào nghề và sống trong một môi trường mà nhà văn viết văn để bán sản phẩm, tự nuôi thân bằng ngòi bút. Thời ấy nghề văn là một nghề trong các nghề ở giữa xã hội, thế thôi. Khi ấy ông nhìn làng văn và tự xem mình là tay bút ở “chiếu dưới”. Nhưng rồi xã hội thay đổi, ông lại gặp cái thời mà nhà văn được tập hợp thành “đội ngũ”, trong đó Tô Hoài trở thành quan chức của làng văn nghệ, mà thời này quan chức văn nghệ cũng đồng thời là quan chức nhà nước! Thời thế đã đưa ông lên ngôi vị “chiếu trên”. Ngạch bậc của ông ngang mức thứ trưởng, vào Bệnh viện Hữu Nghị là ông nằm ở khu A, cán bộ cao cấp... Có lúc ông còn là đại biểu Quốc hội. Bản thân ông đi rất nhiều, tiếp xúc rất nhiều, trong và ngoài nước. Những vị trí khác nhau, những xúc tiếp khác nhau như thế cho ông nhiều điều kiện để quan sát và trải nghiệm, tự rút lấy những kết luận cần thiết cho mọi ứng xử ở đời.

Tôi vẫn nghĩ rằng Tô Hoài có thể đóng nhiều vai, đã từng vào những vai thậm chí chống chọi nhau, xung khắc nhau, nhưng luôn luôn ông vẫn đóng được “tròn vai”. Quan trọng là đối với ông, vai chính vẫn là nhà văn. Mọi công việc, mọi đi đứng, tiếp xúc, thú vị hay nhiêu khê, đối với ông, đều đem lại sự quan sát, sự hiểu biết. Ngồi ở bất cứ đâu ông cũng có thể viết được. Trong các cuộc họp Quốc hội hay ngồi chủ trì hội nghị, có thể ông vẫn giở sổ ra viết tiếp tác phẩm đang viết dở. Ông có thể làm rất nhiều thứ, nhiều loại việc, ít hoặc nhiều, riêng việc viết văn thì lúc nào, ở đâu ông cũng làm.

Theo ông, Tô Hoài ở đâu trong nền văn chương Việt Nam, so sánh với các đồng nghiệp cùng thời và thời trước?

Từ những năm 1990 trở đi, trong đời sống văn học Việt Nam, Tô Hoài trở thành một gương mặt lớn, gương mặt sáng sủa nhất trong số những nhà văn ở tuổi ông còn sót lại. Ông vẫn có được sự kính trọng và ngưỡng mộ của những nhà văn lớp sau, và đó là điều không hề dễ dàng.

Cảm nhận cá nhân của ông về con người Tô Hoài?

Tô Hoài là con người rất lọc lõi, kết quả của một cuộc đời từng trải qua rất nhiều môi trường, ông vẫn tồn tại được và vẫn còn lại là mình.

Cảm ơn ông vì cuộc trò chuyện.

Nhưng chính người ven thành mới là đề tài ông có hiểu biết sâu sắc nhất và cũng được ông viết nhiều nhất.

Tô Hoài có thể đóng nhiều vai, đã từng vào những vai thậm chí chống chọi nhau, xung khắc nhau, nhưng luôn luôn ông vẫn đóng được “tròn vai”. Quan trọng là đối với ông, vai chính vẫn là nhà văn.

Nguồn Nhân Dân: http://www.nhandan.org.vn/hangthang/van-hoa/item/23852102-vi-dau-to-hoai-la-nguoi-%e2%80%9chieu-het-su-doi%e2%80%9d.html