Vị Giáo sư làm rạng danh nền y học Việt Nam với phương pháp mổ gan khô

Ngày 10/5, nhân kỷ niệm 110 năm ngày sinh của Giáo sư Tôn Thất Tùng, Google đã tôn vinh người bác sĩ tài giỏi bằng hình ảnh Doodle. Lý do là bởi ông là người đầu tiên nghiên cứu thành công phương pháp mổ gan khô (hay mổ gan có kế hoạch). Ngày nay, mổ gan khô đã trở thành một trong hai phương pháp cắt gan chính trên toàn thế giới.

Giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Tùng lúc sinh thời.

Giáo sư, bác sĩ Tôn Thất Tùng lúc sinh thời.

Phát hiện bất ngờ

Bác sĩ Daniel Jaeck (Phó Chủ tịch Hiệp hội Phẫu thuật viên quốc tế) đánh giá GS Tôn Thất Tùng có một nhân cách lớn lao, trí tuệ uyên bác và kỹ thuật phẫu thuật tuyệt vời: “Đối với chúng tôi, GS vẫn là một trong những ông tổ nổi tiếng nhất, tiêu biểu nhất trong phẫu thuật hiện đại về gan; các công trình của GS là nguồn gốc của những tiến bộ lớn lao trong chuyên ngành phẫu thuật trên thế giới”.

GS Tôn Thất Tùng sinh ngày 10/5/1912 tại Thanh Hóa và lớn lên ở Huế. Xuất thân từ một gia đình quý tộc nhà Nguyễn, thân sinh ông là cụ Tôn Thất Niên - Tổng đốc Thanh Hóa, nhưng ông không theo nghiệp học làm quan. Vào năm 1931, ông ra Hà Nội theo học tại trường Trung học Bảo Hộ (tức là trường Bưởi - trường Chu Văn An ngày nay). Năm 1935, ông học tại Trường Y Dược toàn cấp Đông Dương, một trường thành viên của Viện Đại học Đông Dương, với quan niệm nghề y là một nghề “tự do”, không phân biệt giai cấp.

GS. Tôn Thất Tùng trong một cuộc hội thảo quốc tế.

Lúc bấy giờ, Trường Y Dược Hà Nội là trường y duy nhất của cả Đông Dương trước 1945, khi đó có lệ các sinh viên y khoa bản xứ chỉ được thực tập ngoại trú, không được dự các kỳ thi “nội trú”, do chính quyền thuộc địa không muốn có những bác sĩ bản xứ có trình độ chuyên môn cao có thể cạnh tranh với bác sĩ của chính quốc.

Khi theo học tại Đại học Y Hà Nội, những kiến thức của thầy giáo người Pháp chỉ chú trọng sách vở, ít liên hệ tới thực tế khí hậu, con người bản xứ đã khiến ông không thật sự thấy hữu ích. Bởi vậy, ông đã quyết định học tập và nghiên cứu, tìm hướng đi riêng cho mình.

Vào một buổi chiều mùa đông năm 1935, ông đã phát hiện ra các ống mật và mạch máu trong lá gan của một tử thi đầy những con giun lớn nhỏ. Bằng những ngón tay khéo léo và một cái nạo, ông đã lần theo và phẫu tích lá gan. Chỉ sau 15 phút, tất cả ống mật, mạch máu trong gan đã được ông nắm được một cách chính xác. Với phát hiện đó, ông đã nảy ra ý tưởng dùng những lá gan bị nhiễm giun để phẫu tích cơ cấu của lá gan.

Trong suốt thời gian từ năm 1935-1939, ông đã lặng lẽ phẫu tích trên 200 lá gan của tử thi để nghiên cứu các mạch máu và vẽ lại thành các sơ đồ đối chiếu. Trên cơ sở đó, ông đã viết và bảo vệ thành công luận án tốt nghiệp với nhan đề “Cách phân chia mạch máu của gan”. Với bản luận án này, ông đã được tặng Huy chương Bạc của Trường Đại học Tổng hợp Paris (mà trường Y Dược Hà Nội lúc bấy giờ là một bộ phận). Bản luận án được đánh giá rất cao và trở thành tiền đề cho những công trình khoa học nổi tiếng của ông.

Phương pháp phẫu thuật khiến thế giới kinh ngạc

Nắm chắc các mạch máu trong gan rồi, ông đi đến một giả thuyết táo bạo: Rất có thể tìm tất cả các mạch máu trong gan, buộc chúng lại và sau đó mới cắt gan. Đấy chính là cách làm về sau được gọi là phương pháp cắt gan có kế hoạch mà ông là người thực hiện đầu tiên trên thế giới, là “cha đẻ” - như lời khẳng định của nhà phẫu thuật Pháp Jean-Michel Krivine (Chủ nhiệm Khoa Phẫu thuật Trung tâm Bệnh viện Émile-Roux, Paris).

Ca mổ đầu tiên theo phương pháp do Tôn Thất Tùng đề xướng và được GS Mayer-May tán thành, diễn ra tại Hà Nội năm 1939, được viết thành báo cáo gửi tới Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris. Viện giao cho GS Funck-Brentano đọc và nhận xét. Tiếc thay, khi gửi báo cáo tới Viện Hàn lâm phẫu thuật Paris, thành công của ông do quá mới mẻ đã bị từ chối. Điều này đã khiến chàng trai trẻ e ngại và phải 20 năm sau đó ông không đụng dao mổ đến gan.

GS Tôn Thất Tùng hướng dẫn học trò trong một giờ giảng giải phẫu.

Trở về Hà Nội giải phóng, không bị biệt lập về khoa học với thế giới bên ngoài, GS Tùng mới biết: Năm 1952, GS Pháp Lortat-Jacob đã thành công khi cắt gan có kế hoạch, bằng cách trước khi cắt, tìm buộc tất cả các cuống mạch máu ở ngoài gan. Ông lại cảm thấy hăm hở như xưa, muốn tiếp tục cái công việc bỏ dở từ năm 27 tuổi.

Ngày 7/1/1961, ông cắt thùy gan phải của một ca ung thư sơ phát chỉ vẻn vẹn trong... 6 phút. Nếu làm theo phương pháp Lortat-Jacob, thì phải mất 3-4 giờ. Phương pháp của ông khác phương pháp Lortat-Jacob ở chỗ: Ông tìm các mạch máu và ống mật ở ngay trong gan (qua tổ chức gan ung thư bị ông bóp vỡ) để thắt lại trước khi mổ; trong khi Lortat-Jacob tìm ở ngoài gan, do vậy, lâu hơn nhiều. Sở dĩ ông có thể làm được như vậy là vì chính ông là người đầu tiên trên thế giới mô tả được rành rẽ các mạch máu và ống mật trong gan.

Ông bèn cho công bố phương pháp cắt gan mới trên tờ The Lancet ở London - tờ tạp chí nổi tiếng trong ngành phẫu thuật thế giới. Công trình gây chấn động dư luận, chỉ sau 1 tháng, hơn 100 nhà phẫu thuật khắp nơi trên thế giới gửi thư xin ông thêm tài liệu. Một số người viết bài dè dặt hoan nghênh, nhưng cũng có nhiều người hoài nghi, kịch liệt phản đối. Đọc những lời bài bác của giới phẫu thuật phương Tây, không ít người Việt Nam vội cho là “phen này ông Tùng hố to” bởi vì đã làm một việc... “phản khoa học”?

Để có thể dành hết thời gian và tâm huyết cho phẫu thuật, GS Tùng xin thôi giữ chức Thứ trưởng Bộ Y tế.

Về “cuộc đọ sức với cái cũ” năm ấy, GS Tôn Thất Tùng từng trả lời rằng: “Nhà phát minh, sáng chế phải là người can đảm rất mực, không hề biết nản chí là gì, không sợ có ý kiến chống đối! Con người ấy phải luôn kiên trì tiếp tục công việc của mình, phải dám tranh cãi, và phải thông thạo chuyên môn cũng như ngoại ngữ để tranh cãi với đồng nghiệp quốc tế. Không nên có mặc cảm tự ti, nghe ‘Tây’ bảo sai là thôi, không dám làm nữa; hoặc nghe chung quanh có người không tin hay thậm chí cho mình ‘phản khoa học” là bỏ cuộc!”.

Nếu năm 1939, ông chán nản do lời nhận xét bất công của GS Funck-Brentano, thì năm 1962, ông sẵn sàng đối mặt với những tên tuổi lớn để bảo vệ thành công của mình. Và sự kiên quyết đó của ông đã được minh chứng là hoàn toàn chính xác khi phương pháp cắt gan của Tôn Thất Tùng cũng được giới thiệu trong Encyclopédie médico - chirurgicale (Bách khoa thư nội thương - phẫu thuật) của Pháp. Sau đó phương pháp này được đưa vào Obstetrics and Surgery’s Reader Digest (Tuyển chọn các tài liệu sản khoa và phẫu thuật) của Mỹ.

Năm 1977, Viện Hàn lâm Phẫu thuật Paris tặng GS Tôn Thất Tùng Huy chương vàng phẫu thuật quốc tế Lannelongue, giải thưởng cao quý nhất trong ngành phẫu thuật thế giới, 5 năm mới tặng 1 lần cho một nhà phẫu thuật xuất sắc tại thời điểm đó.

Đến năm 1979, GS Tôn Thất Tùng đã thực hiện khoảng trên 700 ca cắt gan lớn, nhỏ, bỏ xa một nhà phẫu thuật Singapore đứng sau ông cắt hơn 100 ca. Ngày nay, mổ gan khô đã trở thành một trong hai phương pháp cắt gan chính trên toàn thế giới.

Giáo sư Bác sĩ Tôn Thất Tùng qua đời đột ngột qua đời do một cơn nhồi máu cơ tim vào năm 1982 tại Hà Nội, thọ 70 tuổi. Ngay sau khi nhận được tin, trong bức thư gửi đến Đại sứ quán Việt Nam tại Pháp, bác sĩ Jean-Michel Krivine viết: “Việc Giáo sư Tôn Thất Tùng qua đời làm cho tôi cũng như nhiều bạn bè của giáo sư choáng váng (...). Không ai có thể thay thế Giáo sư Tôn Thất Tùng. Không một nhà phẫu thuật nào có tầm cỡ như giáo sư trong thế hệ hiện nay. Nhưng giáo sư vẫn sống với trường phái do ông sáng lập...”.

Tiểu Vũ

Nguồn Pháp Luật VN: https://baophapluat.vn/vi-giao-su-lam-rang-danh-nen-y-hoc-viet-nam-voi-phuong-phap-mo-gan-kho-post447985.html