Vi phạm quy định bồi thường đất khiến nhiều cán bộ phải hầu tòa

Mặc dù biết thửa đất trên không thuộc diện được bồi thường theo đất ở nhưng ngày 12/3/2024, ông Hiệp vẫn lập báo cáo kết quả họp dân lấy ý kiến, niêm yết công khai dự thảo phương án chi tiết bồi thường dự án cùng bảng dự thảo phương án bồi thường...

Ảnh minh họa.

Ảnh minh họa.

Ngày 26/12, TAND TP Hà Nội đã xử phạt bị cáo Lê Xuân Nghĩa (SN 1983) mức án 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo, Lê Quang Hiệp (SN 1983) 3 năm 6 tháng tù; cả hai đều là cựu cán bộ Trung tâm phát triển quỹ đất huyện Thanh Oai) và Phạm Thái Sơn (cán bộ phòng tài nguyên và môi trường huyện Thanh Oai) 3 năm tù về tội Vi phạm quy định về bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất.

Bị cáo Nguyễn Xuân Bình (Phó trưởng phòng tài nguyên và môi trường huyện Thanh Oai) 3 năm tù nhưng cho hưởng án treo tội Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng.

Theo cáo trạng, thực hiện việc đầu tư xây dựng tuyến đường vành đai 4 trên địa bàn huyện Thanh Oai, UBND TP Hà Nội và UBND huyện Thanh Oai đã ban hành các quyết định triển khai.

Theo quyết định, ông Bình là ủy viên Hội đồng bồi thường, hỗ trợ tái định cư; ông Nghĩa là tổ phó Tổ công tác giải phóng mặt bằng xã Mỹ Hưng cùng ông Hiệp là tổ viên. Còn ông Sơn có nhiệm vụ thẩm định hồ sơ thu hồi đất, phương án bồi thường, hỗ trợ và tái định cư.

Năm 2023, quá trình thực hiện giải phóng mặt bằng, các bị cáo để xảy ra sai phạm trong bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi nhà nước thu hồi đất với các hộ dân trên địa bàn huyện Quốc Oai khiến nhà nước thiệt hại hơn 2,3 tỷ đồng.

Theo đó, ngày 28/2/2023, tổ công tác giải phóng mặt bằng gồm ông Nghĩa và ông Hiệp đã tiến hành kiểm đếm, đo đạc với phần diện tích nằm trong chỉ giới thu hồi đất của hộ ông Lê Văn C. tại thửa đất số 181, tờ bản đồ số 9 xã Mỹ Hưng.

Theo kết quả kiểm đếm, đo đạc tại biên bản được lập, đất và tài sản của ông C. gồm 302,8m2 đất nông nghiệp trong đó có 105,5m2 đất nông nghiệp bị thu hồi vĩnh viễn và 197,3m2 đất nông nghiệp đang sử dụng, công trình nhà 2 tầng, nhà tạm và cây trồng trên đất.

Cán bộ địa chính đã có giấy xác nhận hộ này có thửa đất không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở.

Cáo buộc thể hiện, ông Lê Xuân Nghĩa biết rõ nguồn gốc, quá trình sử dụng đất của hộ ông C. là đất nông nghiệp nhưng vẫn hướng dẫn cho cán bộ địa chính chỉnh sửa nội dung, xác nhận nguồn gốc đất nhằm mục đích bồi thường, hỗ trợ cho gia đình ông C. theo diện tích đất ở.

Ngày 24/2/2024, ông Nghĩa lập tờ trình số 43 đề nghị thẩm tra dự thảo phương án bồi thường, hỗ trợ (đợt 7 thông Phương Mỹ, xã Mỹ Hưng) và ký nháy rồi chuyển cho giám đốc Trung tâm phát triển quỹ đất ký và trình cho Hội đồng bồi thường, Phòng Tài nguyên và môi trường huyện Thanh Oai.

Theo dự thảo, phương án bồi thường về đất cho hộ ông C. là hơn 2,6 tỷ đồng gồm tiền bồi thường về đất hơn 2,2 tỷ đồng; tiền thưởng tiến độ bàn giao mặt bằng 10 triệu đồng; tiền hỗ trợ về tài sản hơn 335 triệu đồng.

Ngày 26/2/2024, Hội đồng bồi thường họp và ra biên bản thẩm tra, nhất trí với dự thảo phương án trên. Trung tâm Phát triển quỹ đất đã niêm yết công khai dự thảo phương án trên tại xã Mỹ Hưng. Do ông Nghĩa bận công việc nên ông Hiệp tiếp tục công việc lập dự thảo phương án bồi thường.

Theo cáo trạng, mặc dù biết thửa đất trên không thuộc diện được bồi thường theo đất ở nhưng ngày 12/3/2024, ông Hiệp vẫn lập báo cáo kết quả họp dân lấy ý kiến, niêm yết công khai dự thảo phương án chi tiết bồi thường dự án cùng bảng dự thảo phương án bồi thường. Ông Hiệp ký nháy và chuyển cho giám đốc trung tâm ký. Nội dung báo cáo thể hiện thửa đất trên vẫn được bồi thường theo diện là đất ở.

Tuy nhiên, về phương án hỗ trợ tài sản trên đất là 100% giá trị tài sản đối với đất không phải là đất ở theo Quyết định số 3956 ngày 20/10/2022 của UBND TP Hà Nội.

Nhận báo cáo và các tài liệu liên quan, ông Sơn lập báo cáo thẩm định hồ sơ và chuyển cho ông Bình.

Cơ quan tố tụng xác định, ông Bình là thành viên tổ thẩm tra Hội đồng bồi thường có trách nhiệm kiểm tra dự thảo phương án bồi thường. Tuy nhiên, do tin tưởng cấp dưới nên ông Bình không kiểm tra lại hồ sơ, nội dung thẩm tra, thẩm định mà vẫn ký vào văn bản dự thảo.

Sau khi Hội đồng bồi thường họp, ngày 27/3/2024, UBND huyện Thanh Oai đã phê duyệt cho gia đình ông C. được hỗ trợ hơn 2,9 tỷ đồng. Đồng thời ra quyết định thu hồi 105,5m2 đất ở của hộ ông này.

Hộ ông C. nhận số tiền trên. Ông Hiệp nhiều lần liên hệ với gia đình ông C. yêu cầu trích lại 200 triệu đồng là tiền hỗ trợ về tài sản được tăng hơn so với mức ban đầu song ông này không đồng ý.

Theo khoản 6 Điều 19 và điểm a, khoản 3, Điều 22 Nghị định số 43/2014/NĐ-CP của Chính phủ, phần đất 105,5m2 không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở.

Ngày 19/7/2024, Trung tâm phát triển quỹ đất có văn bản về việc kiểm tra, rà soát hồ sơ trong đó điều chỉnh phương án bồi thường với hộ ông C. số tiền hơn 591 triệu đồng; chênh lệch hơn 2,3 tỷ đồng.

Quá trình điều tra, cơ quan điều tra đã phong tỏa số tiền hơn 1,8 tỷ đồng của vợ ông C. Ngày 29/8/2024 UBND huyện Thanh Oai có văn bản về việc UBND huyện đã tổ chức thu hồi, khắc phục số tiền còn lại để nộp vào ngân sách nhà nước.

Theo các quy định pháp luật, việc thu hồi đất cần đảm bảo quyền lợi về tài sản, cũng như đảm bảo cuộc sống của người sử dụng đất có diện tích đất bị thu hồi.

Thực tiễn khi thực hiện chính sách, có nhiều người đã vi phạm các quy định của pháp luật gây thiệt hại cho ngân sách nhà nước, không đảm bảo công bằng, dân chủ, công khai, minh bạch… Các hành vi này được quy định tại điều 230 Bộ luật Hình sự 2017.

Tội phạm này xâm phạm đến chính sách và các quy định của nhà nước về quản lý đất đai, xâm phạm đến sự hoạt động bình thường của các cơ quan nhà nước, xâm phạm đến quyền, lợi ích của nhà nước, của người sử dụng đất trong việc thu hồi đất.

Ngoài ra, còn làm ảnh hưởng đến uy tín của nhà nước, làm suy giảm lòng tin của nhân dân vào các chính sách, việc thực hiện các chính sách của nhà nước về thu hồi đất nói riêng, các chính sách quản lý kinh tế nói chung.

Đỗ Mến

Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/vi-pham-quy-dinh-boi-thuong-dat-khien-nhieu-can-bo-phai-hau-toa.htm