Vì sao giá hàng hóa tăng nhưng chỉ số CPI chỉ ở mức thấp?
Theo bà Nguyễn Thị Hương - Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê: Trong 6 tháng đầu năm, có một số yếu tố đã tác động làm tăng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) nhưng cũng có một số yếu tố đã giúp kiềm chế chỉ số này.
Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê Nguyễn Thị Hương cho biết: Trong 6 tháng đầu năm, có một số yếu tố đã tác động làm tăng CPI như: Giá xăng dầu được điều chỉnh 16 đợt, làm cho giá xăng A95 tăng 11.960 đồng/lít; xăng E5 tăng 11.540 đồng/lít và dầu diezen tăng 13.900 đồng/lít.
Bình quân 6 tháng, giá xăng dầu trong nước tăng 51,83% so với cùng kỳ năm trước, tác động làm CPI chung tăng 1,87 điểm phần trăm. Giá gas trong nước biến động theo giá gas thế giới, giá gas 6 tháng đầu năm tăng 25,92% so với cùng kỳ năm trước, góp phần làm CPI chung tăng 0,38 điểm phần trăm.
Dịch COVID-19 đã được kiểm soát, nhu cầu ăn ngoài nhà hàng tăng nên giá ăn uống ngoài gia đình bình quân 6 tháng đầu năm nay tăng 3,5% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI chung tăng 0,3 điểm phần trăm.
Giá vật liệu bảo dưỡng nhà ở 6 tháng tăng 7,95% so với cùng kỳ năm trước do giá xi măng, sắt, thép, cát tăng theo giá nguyên nhiên vật liệu đầu vào, tác động làm CPI chung tăng 0,16 điểm phần trăm.
Tuy nhiên, theo bà Hương, bên cạnh đó cũng có một số yếu tố đã giúp kiềm chế CPI 6 tháng ở mức 2,44%.
Cụ thể là giá các mặt hàng thực phẩm 6 tháng đầu năm giảm 0,4% so với cùng kỳ năm trước, làm CPI giảm 0,08 điểm phần trăm, trong đó giá thịt lợn giảm 20,12%; giá nội tạng động vật giảm 9,52%; giá thịt chế biến giảm 3,89%.
Giá dịch vụ giáo dục giảm 3,56% do một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương miễn giảm học phí từ học kỳ I năm học 2021-2022 do ảnh hưởng của dịch COVID-19, làm CPI chung giảm 0,19 điểm phần trăm.
Giá bưu chính viễn thông giảm 0,55% so với cùng kỳ năm trước do giá điện thoại di động giảm.
Đồng thời, để chủ động ứng phó với những thách thức trước áp lực lạm phát gia tăng, trong thời gian qua Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp bình ổn giá, hạn chế những tác động tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội.
“Các chính sách được ban hành kịp thời giúp ổn định hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp và đời sống của người dân, giảm áp lực đáng kể lên mặt bằng giá như giảm thuế giá trị gia tăng với một số nhóm hàng hóa và dịch vụ từ 10% xuống 8% từ ngày 1/2; giảm 50% mức thuế bảo vệ môi trường đối với nhiên liệu bay từ ngày 1/1 đến hết ngày 31/12/2022; giảm mức thu 37 khoản phí, lệ phí trong 6 tháng đầu năm 2022; giảm 50% thuế bảo vệ môi trường đối với xăng dầu từ ngày 1/4.
Nhờ vậy mà chúng ta đã kiểm soát được lạm phát 6 tháng đầu năm ở mức 2,44%”, bà Hương nói.
Chính phủ đã chỉ đạo quyết liệt các bộ, ngành, địa phương thực hiện đồng bộ các giải pháp bình ổn giá.
Về phương pháp tính CPI, Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê khẳng định: Cách tính của Tổng cục Thống kê áp dụng từ năm 1995 đến nay theo đúng hướng dẫn của quốc tế và hiện nay thực hiện theo Tài liệu hướng dẫn biên soạn Chỉ số giá tiêu dùng mới nhất của các tổ chức quốc tế ban hành năm 2020. Do đó, phương pháp tính CPI của Tổng cục Thống kê phản ánh sát diễn biến giá tiêu dùng trên thị trường và bảo đảm tính so sánh với số liệu của các nước trên thế giới cũng như trong khu vực.
Hàng năm, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) cử chuyên gia đến Việt Nam rà soát và đánh giá nguồn thông tin, phương pháp tính, mặt hàng đại điện và quyền số dùng để tính CPI theo tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế. Các tổ chức quốc tế khác như Cơ quan Thống kê Liên Hợp Quốc (UNSD), Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) đều sử dụng số liệu CPI của Tổng cục Thống kê trong các báo cáo và đánh giá phương pháp tính CPI của Việt Nam phù hợp với thông lệ quốc tế.
Theo phương pháp sử dụng, GDP được tính toán dựa vào tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ; số liệu về thu, chi ngân sách Nhà nước (từ Bộ Tài chính); trị giá xuất, nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ (số liệu từ Tổng cục Hải quan); kết quả hoạt động xây dựng, nhập khẩu máy móc thiết bị và từ kết quả nhiều cuộc điều tra khác…
Ngoài phương pháp biên soạn trực tiếp, hàng năm Tổng cục Thống kê có 2 kỳ ước tính chỉ tiêu GRDP cho các tỉnh, thành phố vào tháng 5 và tháng 11. Kết quả biên soạn GRDP 63 tỉnh/thành phố là một nguồn thông tin để đối sánh với kết quả biên soạn GDP cả nước kỳ 6 tháng và cả năm.
Với góc nhìn đa chiều, kết quả tính toán GDP dù ở thời điểm nào cũng phải tuân theo các quy định cụ thể, chặt chẽ về phương pháp luận và đảm bảo logic, phù hợp với thực trạng kinh tế của Việt Nam.
Bên cạnh đó, sau khi công bố kết quả tính toán GDP, Tổng cục Thống kê cũng cung cấp số liệu này cho các cơ quan, tổ chức quốc tế như cơ quan Thống kê Liên Hợp Quốc, Quỹ Tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng Thế giới, Ngân hàng Châu Á, Cơ quan Thống kê Asean và đều được các tổ chức này đánh giá cao về chất lượng thông tin và đảm bảo tính so sánh quốc tế với các quốc gia khác trên thế giới.
“Số liệu thống kê phản ánh theo quy luật số lớn, những số liệu do Tổng cục Thống kê tính toán và công bố đã phản ánh sát tình hình hình kinh tế - xã hội của đất nước và từng địa phương, không có tình trang làm đẹp con số”, bà Hương khẳng định.