Không quân Mỹ đang lên kế hoạch loại biên phi đội máy bay tiếp dầu KC-10 Extender nhằm tiết giảm chi phí.
Nếu loại biên 59 máy bay chở dầu hạng nặng KC-10 Extender Không quân Hoa Kỳ sẽ tiết kiệm được 2 tỷ USD.
Tuy nhiên lựa chọn này gặp khó khăn, vì những chiếc Boeing KC-46 Pegasus được lên kế hoạch để thay thế KC-10 Extender vẫn chưa đủ số lượng để gánh vác nhiệm vụ của "người tiền nhiệm".
KC-10 Extender là biến thể máy bay vận tải/tiếp nhiên liệu quân sự dựa trên mẫu máy bay chở khách Boeing DC-10.
Máy bay KC-10 Extender có thể phục vụ như máy bay tiếp dầu hoặc máy bay chở hàng.
Theo thiết kế, KC-10 có thể chở theo 160 tấn nhiên liệu, 75 quân nhân và khoảng 77 tấn hàng hóa.
KC-10 Extender được trang bị 3 thùng chứa dầu lớn ở cánh cũng như 3 bồn chứa dầu ở khoang chứa hàng hóa.
Phi công của KC-10 Extender thực hiện các nhiệm vụ tiếp dầu thông qua hệ thống điều khiển bay điện tử.
KC-10 Extender có khả năng tiếp dầu với tốc độ đạt tới 4.180 lít/phút qua hệ thống tiếp liệu trên không.
Máy bay được trang bị hệ thống giảm tải tự động cũng như hệ thống tự ngắt kết nối để đảm bảo an toàn trong các nhiệm vụ tiếp liệu.
KC-10 Extender được nghiên cứu và phát triển vào những năm cuối thập niên 1970, chuyến bay đầu tiên ra mắt vào năm 1980.
Sau khi thử nghiệm đánh giá, những chiếc KC-10 Extender được đưa vào trang bị vào tháng 3 năm 1981.
Để điều khiển máy bay này cần kíp lái 4 thành viên, KC-10 Extender có chiều dài 54,4 mét, sải cánh 50 mét và chiều cao 17,4 mét.
Trọng lượng rỗng của KC-10 Extender là 109 tấn, trọng lượng có tải 269 tấn.
Máy bay sử dụng 3 động cơ F103/General Electric CF6-50C2 công suất 236 kN/chiếc.
Với 3 động cơ này giúp cho KC-10 Extender bay với vận tốc cực đại 996 km/h, tầm bay 7.032 km.
KC-10 Extender có trần bay 12.727 mét, vận tốc leo cao 34,9 mét/giây.
Hiện KC-10 Extender đang có trong biên chế của không quân Mỹ và không quân Hà Lan.
Giá thành mỗi chiếc KC-10 Extender sản xuất mới thời điểm thập niên 1990 vào khoảng 88,4 triệu USD.