Vì sao ngân hàng cần duy trì cơ chế 'room tín dụng'?
Giới hạn tăng trưởng tín dụng (room tín dụng) năm 2022 là 14% nhưng đây không phải là con số cứng mà có thể điều hành linh hoạt. Đây là công cụ quan trọng hướng tới đa mục tiêu, bảo đảm tăng trưởng nhưng không 'quá nóng' gây sức ép lạm phát, đồng thời, kiểm soát chặt hơn chất lượng các khoản vay.
Đây là ý kiến trao đổi của Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú về vấn đề dư luận quan tâm hiện nay là "room tín dụng" tại cuộc Họp báo về tình hình hoạt động ngân hàng 6 tháng đầu năm 2022.
Công cụ hành chính cần thiết để điều chỉnh thị trường
Thời gian qua, có một số ý kiến cho rằng, việc đặt ra room tín dụng mang phong cách "bao cấp", công cụ hành chính, không còn phù hợp với bối cảnh thị trường hiện tại, đồng thời, băn khoăn về việc chưa có tiêu chí rõ ràng, có thể gây hiện tượng "xin-cho", hay tiêu cực. Phân tích về vấn đề này, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú cho rằng, công cụ room tín dụng áp dụng từ năm 2011 đến nay với nhiều mục tiêu.
Thực tế, nhiều quốc gia, bao gồm những nước có nền kinh tế thị trường phát triển, vẫn phải kết hợp công cụ hành chính để khắc phục những khuyết tật thị trường.
"Không phải công cụ hành chính là không tốt, hành chính hay thị trường thì quan trọng nhất vẫn là hiệu quả tổng thể cuối cùng", ông Đào Minh Tú nhất mạnh.
Lãnh đạo NHNN chia sẻ thêm, room tín dụng không hề cứng nhắc và hoàn toàn minh bạch. Nội dung về room tín dụng được ghi rất rõ ngay trong Chỉ thị số 01/CT-NHNN về tổ chức thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm của ngành ngân hàng trong năm 2022.
Phó Thống đốc NHNN Đào Minh Tú phân tích thêm: Nếu không có ảnh hưởng của dịch COVID-19, hay cơ hội phục hồi kinh tế, nhu cầu vốn doanh nghiệp, hộ kinh doanh tăng nhanh, thì vấn đề room tín dụng không nóng như hiện nay. Cụ thể, nếu không có dịch, không gia hạn nợ, cơ cấu lại nợ cho doanh nghiệp, thì lượng vốn đã đủ để quay vòng, trả nợ. Nhưng do các nguyên nhân trên cộng với tình hình kinh tế phục hồi nên lượng vốn cần bổ sung tăng lên khá mạnh.
Như vậy, con số 14% chỉ tiêu có tính chất định hướng, không phải con số cứng, có thể điều chỉnh cao hoặc thấp hơn.
Bên cạnh đó, NHNN áp dụng công cụ room tín dụng cùng với các yêu cầu về an toàn vốn…Ngân hàng nào chất lượng tốt hơn, tín dụng lành mạnh hơn, tham gia nhiều hơn vào các mục tiêu chung của hệ thống và chủ trương của Chính phủ đương nhiên sẽ được ưu tiên nới room tín dụng hơn.
Sức ép cao nhưng vẫn giữ vững mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô
Ông Phạm Chí Quang, Phó Vụ trưởng phụ trách Vụ Chính sách tiền tệ (NHNN) phân tích thêm, để đánh giá về công cụ room tín dụng cần nhìn rộng dưới góc độ kinh tế vĩ mô cả trong và ngoài nước.
Bối cảnh hiện nay, áp lực lạm phát của kinh tế thế giới rất cao, do nền kinh tế Việt nam có độ mở cao, kim ngạch xuất nhập khẩu lên tới 190% GDP. Bên cạnh đó, giá nguyên liệu, đặc biệt giá dầu tăng cao, tác động lớn đến lạm phát.
Ông Phạm Chí Quang dẫn chứng, các Ngân hàng Trung ương trên thế giới đang phải áp dụng loạt biện pháp thắt chặt chính sách tiền tệ mạnh tay. Riêng trong năm 2021, có 113 lượt tăng lãi suất, riêng 5 tháng đầu năm 2022, đã có 144 lượt tăng lãi suất trên phạm vi toàn cầu.
Về lãi suất, ông Phạm Chí Quang chia sẻ thêm: Cục Dự trữ liên bang Hoa Kỳ (Fed) quyết định tăng lãi suất cơ bản lên 0,75%, tác động lớn lên mặt bằng lãi suất và tỉ giá của nhiều nước, bao gồm cả Việt Nam.
Cho đến nay, riêng tỉ giá USD tăng trên 9% so với cuối năm 2021, do USD tăng giá lớn nên hầu hết các đồng tiền cơ bản của thế giới, đặc biệt trong khu vực, mất giá lớn. Đồng nhân dân tệ Trung Quốc mất giá 5,3%, won Hàn Quốc 4,7%, đồng Yên của Nhật Bản thậm chí mất giá gần 16%. Đây đều là các đối tác thương mại đầu tư lớn với Việt Nam.
Trong khi đó, NHNN Việt Nam lại hạ 3 lần lãi suất liên tiếp trong năm 2020, cố gắng bình ổn lãi suất năm 2021 và trong 6 tháng đầu năm 2022.
Dưới sự chỉ đạo của Chính phủ, NHNN bám sát kinh nghiệm "dĩ bất biến ứng vạn biến", với mục tiêu quan trọng nhất là ổn định kinh tế vĩ , kiểm soát lạm phát.
NHNN sử dụng đồng bộ linh hoạt các công cụ lãi suất, thanh khoản, tín dụng, tỉ giá… kiểm soát an toàn, bảo đảm TCTD nằm trong khả năng kiểm soát, không ảnh hưởng thanh khoản thị trường.
Bối cảnh nước ngoài tăng lãi suất liên tục, nhưng mặt bằng lãi suất từ đầu năm cho vay ở Việt Nam hiện tăng nhẹ 0,09%, thể hiện nỗ lực lớn của NHNN, hệ thống các TCTD đã đồng hành cùng nền kinh tế, duy trì lãi suất cho vay hợp lý để không gây gánh nặng cho doanh nghiệp, người dân, vượt qua ảnh hưởng do khủng hoảng COVID-19.
"Nhìn vào tình hình chung mới thấy việc duy trì mặt bằng lãi suất ổn định, chỉ số CPI tăng vừa phải ở Việt Nam là nỗ lực lớn trong bối cảnh lạm phát toàn cầu bùng nổ", ông Phạm Chí Quang nói.
Nhìn lại lịch sử, ông Phạm Chí Quang cho hay: Trước khi áp dụng room tín dụng, từ năm 2011 trở về trước, có những năm tăng trưởng tín dụng rất nóng, lên tới 53,8%, gấp rưỡi bảng cân đối sau 1 năm. Điều này vượt xa khả năng quản trị, cân đối vốn của TCTD, dẫn đến hệ lụy lớn là mất khả năng thanh toán.
Với bài học đó, NHNN phải áp dụng hệ thống kiểm soát đi bằng "2 chân". Trong đó, chân thứ nhất là quản trị hệ thống ngân hàng thương mại theo chuẩn mực quốc tế. Chân thứ hai là kiểm soát từ sớm, từ xa việc tăng trưởng và chất lượng tín dụng.
Thống kê 3 năm trở lại đây, nhu cầu tăng trưởng ngân hàng thương mại vượt xa khả năng cân đối vốn đều trên 20%.
"Nếu để ngân hàng thương mại tăng tốc độ lớn như vậy, tiền đổ vào nền kinh tế nhiều thì áp lực lạm phát lớn. Nếu các TCTD chạy đua tăng lãi suất huy động để có thêm vốn cho vay, lãi suất huy động tăng, đương nhiên khiến lãi suất cho vay tăng, rủi ro nợ xấu gia tăng, chưa nói đến vấn đề thanh khoản", ông Phạm Chí Quang phân tích.
Đại diện Vụ Chính sách tiền tệ khẳng định, điều chỉnh cấp room tín dụng được công bố công khai minh bạch ngay từ đầu năm. Về phía NHNN, cơ quan này luôn cập nhật về tình hình "sức khỏe " chuẩn mực quản trị rủi ro… Điều chỉnh tăng trưởng tín dụng là công cụ bên cạnh công cụ quản lý các tỉ lệ an toàn của các TCTD. Trong 11 năm áp dụng room tín dụng, NHNN thường xuyên rà soát, cập nhật tình hình các TCTD. Thực tế, các TCTD tuân thủ các quy định về hệ số an toàn theo chuẩn quốc tế ngày càng cao như: Basel 1, Basel 2, có ngân hàng thương mại đang hướng tới chuẩn mực cao hơn là Basel 3.
Ông Phạm Chí Quang khẳng định: NHNN ưu tiên cho các TCTD có mức xếp hạng phân loại chất lượng cao hơn. Ngoài ra, có ngân hàng còn "gánh" nhiệm vụ tham gia xử lý ngân hàng thương mại yếu kém, đồng hành với NHNN thực hiện nhiệm vụ chính trị. Ở chiều ngược lại, NHNN sẽ có điểm trừ với các TCTD thường xuyên trong diện cảnh báo cho vay quá nhiều lĩnh vực rủi ro như đầu cơ bất động sản, chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp… Với các TCTD này, NHNN sẽ bảo đảm tăng trưởng tín dụng vừa phải duy trì chất lượng tài sản cao, hạn chế rủi ro hệ thống.
NHNN giám sát từng TCTD, cập nhật thường xuyên. Ngay cả trong trường hợp gần cạn room, thì các TCTD này sẽ phải tự động chuyển sang trạng thái phòng thủ, cân nhắc điều chỉnh khẩu vị rủi ro tín dụng, lựa chọn, cung cấp cho khách hàng tốt hơn, hay tập trung nhiều hơn vào các lĩnh vực định hướng mà Chính phủ ưu tiên.
Đây là giai đoạn "gạn đục khơi trong" bảo đảm các TCTD phải lựa chọn phân khúc khách hàng tốt. Ngoài ra, cũng không nên lạm dụng để khách hàng lớn có quan hệ tín dụng quá lớn, vay đến gần 15% vốn tự có ngân hàng, cần đa dạng hóa danh mục tín dụng để bảo đảm hạn chế rủi ro hệ thống.
"Về dài hạn, ngành ngân hàng hướng đến chuyển dần vai trò cung cấp vốn, đặc biệt là vốn trung dài hạn sang các phân khúc khác trong thị trường vốn như thị trường chứng khoán... Đó là định hướng điều hành chính sách tiền tệ hay room tín dụng của NHNN trong thời gian tới", ông Phạm Chí Quang nói.