Vì sao nhiều ngành học ngày càng bị 'ghẻ lạnh'?
Trong 3 năm liền, 4 lĩnh vực gồm Nông lâm nghiệp và Thủy sản, Khoa học sự sống, Khoa học Tự nhiên và Dịch vụ xã hội đều nằm trong nhóm các lĩnh vực tuyển sinh kém nhất.
Ngày 3/3, Bộ Giáo dục và Đào tạo tổ chức Hội nghị tổng kết công tác tuyển sinh 2022 và triển khai công tác tuyển sinh năm 2023.
Theo báo cáo, năm 2022, số liệu thi sinh trúng tuyển và nhập học đại học, cao đẳng ngành thể hiện kết quả khả quan.
Tổng số thí sinh nhập học toàn quốc là 521.263 đạt 83,39%, cao hơn số nhập học của năm 2021, 2020.
Trong số 330 cơ sở đào tạo, có 194 cơ sở đào tạo (chiếm 58,67%) có tỉ lệ nhập học đạt trên trên 80% so với chỉ tiêu và chiếm 79,42% tổng số nhập học của toàn quốc.
Đặc biệt tỷ lệ tuyển sinh theo các lĩnh vực đào tạo cho thấy sự phân hóa giữa các ngành học ngày càng rõ rệt. Cụ thể, ở vị trí top 1 là ngành Kinh doanh và quản lý chiếm 24,54%; tiếp đó là ngành Máy tính và công nghệ thông tin chiếm 11,79%; Công nghệ kỹ thuật chiếm 9,18%; Nhân văn chiếm 8,38%, Sức khỏe chiếm 6,35%... Nằm ở ví trí cuối bảng là các nhó ngành, Dịch vụ xã hội chiếm 0,36%; Toán và Thống kê chiếm 0,4%, Thú y chiếm 0,51%...
Thống kê số liệu tuyển sinh cho thấy, phần lớn cơ sở đào tạo đã tuyển được số lượng đạt tỷ lệ cao so với chỉ tiêu; bên cạnh đó cũng có một số cơ sở đào tạo tuyển sinh khó khăn, nhất ở một số lĩnh vực và ngành đào tạo.
Trong 3 năm liền, 4 lĩnh vực gồm Nông lâm nghiệp và Thủy sản, Khoa học sự sống, Khoa học Tự nhiên và Dịch vụ xã hội đều nằm trong nhóm các lĩnh vực tuyển sinh kém nhất.
Các cơ sở đào tạo tuyển kém chủ yếu do một số nguyên nhân như chưa đủ uy tín, thương hiệu để hấp dẫn thí sinh, do vị trí địa lý, sự cạnh tranh khi chỉ tiêu hàng năm tăng, lĩnh vực đào tạo thí sinh ít có nhu cầu theo trào lưu xã hội, ngành đào tạo hẹp, ngành mới thí điểm đào tạo, ngành thiếu hấp dẫn về cơ hội việc làm và phát triển nghề nghiệp.
Năm 2022, những đổi mới trong quy chế tuyển sinh và hệ thống công nghệ đã mang lại những kết quả tích cực. Theo đó, thí sinh được hưởng lợi nhiều nhất trong việc thực hiện thuận tiện các thủ tục trên hệ thống trực tuyến, đồng thời được bảo đảm cơ hội trúng tuyển cao nhất vào ngành, trường theo nguyện vọng và năng lực. Còn các cơ sở đào tạo được cạnh tranh bình đẳng và minh bạch để lựa chọn thí sinh phù hợp nhất. Tỉ lệ thí sinh ảo giảm mạnh, các cơ sở đào tạo tuyển được số lượng sát hơn với chỉ tiêu đã công bố.
Về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo có dữ liệu đầy đủ, kịp thời và tin cậy về tuyển sinh của tất cả cơ sở đfao tạo phục vụ nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước, đồng thời hỗ trợ các cơ sở đào tạo điều chỉnh chiến lược và phương thức tuyển sinh.
Mặt khác, đây cũng là năm có sự thay đổi một số văn bản quy định về các xã khó khăn, các xã đặc biệt khó khăn của Chính phủ, Ủy ban dân tộc, tác động đến chính sách ưu tiên khu vực trong tuyển sinh. Các cơ sở giáo dục đào tạo đã rất tích cực rà roát, cập nhật bổ sung cơ sở dữ liệu về khu vực ưu tiên (danh mục khu vực trường phổ thông; danh mục xã khó khăn, xã đặc biệt khó khăn,…). Với cơ sở dữ liệu trên Hệ thống đã tạo điều kiện đảm bảo cho việc xác định khu vực ưu tiên của thí sinh được chính xác, giảm thiểu các sai sót.
Về phương hướng tuyển sinh năm 2023 về cơ bản giữ ổn định theo quy chế tuyển sinh 2022. Tuy nhiên, cần lưu ý một số điểm. Đó là, năm 2023, cơ sở đào tạo ban hành quy chế tuyển sinh cụ thể hóa quy chế của Bộ. Đồng thời áp dụng điểm ưu tiên có hiệu lực từ năm 2023.
Cụ thể, điểm ưu tiên đối với thí sinh đạt tổng điểm từ 22,5 trở lên (thang 10 và tổng điểm 3 môn tối đa là 30) sẽ giảm dần.
Thí sinh được hưởng chính sách ưu tiên khu vực theo quy định trong năm tốt nghiệp THPT (hoặc trung cấp) và một năm kế tiếp.
Bên cạnh đó, có một số điểm cần lưu ý, một số điểm mới và giải pháp để tiếp tục cải thiện, khắc phục các tồn tại, hạn chế năm 2022.
Đối với công tác tuyển sinh của một số ngành, lĩnh vực và cơ sở đào tạo, Bộ Gáo dục và Đào tạo cho rằng, cơ sở đào tạo nắm bắt thị trường lao động, cùng với sự khác biệt trong quan niệm và nhu cầu của giới trẻ dẫn tới xu hướng chọn trường và chọn ngành của thí sinh.
Đồng thời, đổi mới nội dung ngành và chương trình đào tạo, môi trường và phương pháp đào tạo, truyền thông và quảng bá tuyển sinh. Các bộ ngành sử dụng nguồn nhân lực cần thực hiện cơ chế đặt hàng đào tạo. Cơ sở đào tạo cần hỗ trợ thí sinh thực hiện Chính sách tín dụng cho sinh viên theo Quyết định số 05/2022/QĐ-TTg của Thủ tướng.
Nguồn VnEconomy: https://vneconomy.vn/vi-sao-nhieu-nganh-hoc-ngay-cang-bi-ghe-lanh.htm