Vì sao Tâm lý học trở thành ngành học 'hot' nhất mùa tuyển sinh 2025?
Ngành Tâm lý học chưa bao giờ 'nóng' như tại mùa tuyển sinh 2025, với điểm chuẩn tăng kỷ lục, đặc biệt gần chạm ngưỡng tuyệt đối tại Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội. Trao đổi với Chuyên trang Sinh Viên Việt Nam, Báo Tiền Phong, PGS.TS Phạm Mạnh Hà, chuyên gia tâm lý giáo dục, giảng viên cao cấp Đại học Bách khoa Hà Nội đã phân tích sức hút đặc biệt của ngành học này trong kì tuyển sinh vừa qua.
Thưa PGS,TS. Phạm Mạnh Hà, trong khoảng vài năm gần đây, ngành tâm lý học trở nên rất “hot”, có thêm rất nhiều trường đại học mở thêm mã ngành đào tạo này, và đặc biệt trong kỳ thi tuyển sinh đại học năm nay, điểm chuẩn của các trường đều tăng mạnh, trong đó có trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội đạt mức gần như tuyệt đối 29/30. Theo ông, điều gì khiến cho ngành tâm lý học trở nên có sức hút lớn đối với các thí sinh dự thi đại học như vậy ạ?
PGS,TS. Phạm Mạnh Hà:
Chưa bao giờ ngành Tâm lý học tại Việt Nam lại nhận được sự quan tâm mạnh mẽ và trở thành tâm điểm của dư luận như trong kỳ tuyển sinh đại học vừa qua. Việc điểm chuẩn của ngành liên tục tăng vọt ở nhiều trường, đặc biệt là con số gần như tuyệt đối 29/30 cho tổ hợp C00 của Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội, đã tạo nên “cơn địa chấn”. Hiện tượng này không phải là một trào lưu nhất thời, mà là đỉnh của một tảng băng trôi, phản ánh những chuyển biến sâu sắc trong nhu cầu và nhận thức của toàn xã hội.

PGS,TS. Phạm Mạnh Hà, chuyên gia tâm lý giáo dục, giảng viên cao cấp Trường Đại học Bách khoa Hà Nội.
Sức hút của ngành Tâm lý học trước hết bắt nguồn từ chính những áp lực hữu hình và vô hình trong đời sống hiện đại. Chúng ta đang vận động trong một xã hội đầy biến động với tốc độ chóng mặt. Vòng xoáy của công việc, nỗi lo về tài chính, sự bất định của nghề nghiệp, xung đột trong các mối quan hệ và sự đổ vỡ hôn nhân... đã tạo nên một gánh nặng khổng lồ lên sức khỏe tinh thần của mỗi người. Những trạng thái như căng thẳng (stress), lo âu, kiệt sức (burnout) hay trầm cảm không còn là những thuật ngữ xa lạ mà đã len lỏi vào đời sống của rất nhiều cá nhân, từ người trưởng thành đến các em học sinh.
Khi những “vết thương” tâm hồn ngày càng phổ biến, nhu cầu tìm kiếm sự hỗ trợ chuyên nghiệp để tháo gỡ, chữa lành và tìm lại sự cân bằng trở thành một đòi hỏi tất yếu. Cùng lúc đó, nhận thức của cộng đồng đã có một bước tiến vượt bậc. Nhờ vai trò tích cực của truyền thông, những vấn đề từng bị xem là nhạy cảm như tự tử ở người trẻ, bạo lực học đường, hay trầm cảm sau sinh đã được nhìn nhận một cách khoa học và nhân văn hơn. Mọi người dần hiểu rằng sức khỏe tinh thần cũng quan trọng không kém sức khỏe thể chất. Việc tìm đến một nhà tâm lý không còn bị xem là “yếu đuối” hay “bệnh hoạn”, mà là một hành động chăm sóc bản thân văn minh và cần thiết.
Một động lực sâu xa khác đến từ chính thế hệ trẻ. Nhiều em lựa chọn ngành Tâm lý học không chỉ để mưu cầu một sự nghiệp, mà còn là một hành trình để thấu hiểu và chữa lành cho chính bản thân. Đối mặt với áp lực học tập, khủng hoảng định danh và những tổn thương cá nhân, các em tìm đến Tâm lý học như một công cụ để tự lý giải những diễn biến phức tạp bên trong mình, từ đó học cách chấp nhận và yêu thương bản thân một cách trọn vẹn.
Bên cạnh những điều mà ông vừa chia sẻ thì phương thức xét tuyển đại học năm nay có yếu tố nào khác góp phần làm cho ngành Tâm lý học thu hút thí sinh giỏi và có mức điểm chuẩn cao không ạ?
PGS,TS. Phạm Mạnh Hà:
Nhu cầu xã hội tăng cao tất yếu dẫn đến cuộc cạnh tranh gay gắt trong tuyển sinh. Sự chênh lệch lớn giữa “cung” và “cầu” trong đào tạo chất lượng cao là nguyên nhân chính đẩy điểm chuẩn lên mức kỷ lục. Dù nhiều trường đã mở thêm ngành Tâm lý học, nhưng các cơ sở đào tạo có uy tín, có lịch sử lâu đời và đội ngũ chuyên gia hàng đầu như Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội hay Trường Đại học Sư phạm Hà Nội vẫn là đích ngắm của hàng ngàn thí sinh xuất sắc. Khi chỉ tiêu có hạn mà số lượng nguyện vọng chất lượng cao quá lớn, điểm chuẩn bị đẩy lên cao là điều không thể tránh khỏi.
Đặc biệt, việc điểm chuẩn khối C00 (Văn, Sử, Địa) đạt mức gần 30 điểm cho thấy một sự dịch chuyển quan trọng: Tâm lý học giờ đây đã trở thành một trong những lựa chọn hàng đầu, có sức cạnh tranh ngang ngửa với các ngành “hot” truyền thống của khối xã hội, thu hút được những bộ óc ưu tú nhất.
Thưa ông, với nguồn thí sinh gia tăng về chất lượng đầu vào năm nay như vậy là một điều rất đáng mừng. Tuy nhiên bên cạnh đó, có luồng ý kiến dư luận xã hội, trong đó có cả phụ huynh của học sinh, sinh viên cho rằng đây là ngành học khó và nhiều thử thách trong hoạt động nghề nghiệp với thực tế xã hội và yếu tố văn hóa của người Việt Nam, ông đánh giá như thế nào về điều này?
PGS,TS. Phạm Mạnh Hà:

PGS, TS. Phạm Mạnh Hà lý giải những thách thức trong ngành Tâm lý học.
Con đường của một người làm tâm lý không hề trải hoa hồng. Đây là một ngành học khó, đòi hỏi sự trưởng thành về nhân cách, sức bền tinh thần và khả năng tự soi chiếu bản thân liên tục. Hơn nữa, trong bối cảnh văn hóa Việt Nam, người làm nghề vẫn đối mặt với những thách thức nhất định. Thói quen tìm đến gia đình, bạn bè khi gặp khó khăn hay sự e ngại về chi phí, về tính riêng tư vẫn còn tồn tại.
Dù vậy, những thách thức này cũng chính là cơ hội. Sự thay đổi trong nhận thức xã hội đang diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt ở thế hệ trẻ. Quan trọng hơn, chính yếu tố văn hóa bản địa lại là lợi thế cạnh tranh lớn nhất của các chuyên gia tâm lý Việt Nam. Một nhà tâm lý am hiểu sâu sắc về các giá trị gia đình, các mối quan hệ xã hội và những ẩn ức đặc thù của người Việt sẽ có khả năng đồng hành và đưa ra những can thiệp phù hợp, hiệu quả. Nhiệm vụ của chúng ta là xây dựng một nền tâm lý học chuyên nghiệp mang bản sắc Việt, vừa tiếp thu tinh hoa thế giới, vừa bén rễ sâu vào mảnh đất văn hóa dân tộc.
Ông có thể dự đoán triển vọng nghề nghiệp của sinh viên ngành Tâm lý học trong 5–10 năm tới sẽ ra sao?
PGS,TS. Phạm Mạnh Hà:
Vượt qua những thử thách tôi đã nêu trước đó, triển vọng nghề nghiệp cho sinh viên Tâm lý học trong 5–10 năm tới là vô cùng tươi sáng và đa dạng:
Lĩnh vực lâm sàng và tham vấn: Sẽ tiếp tục bùng nổ với sự phát triển của hệ thống phòng tham vấn học đường, khoa tâm lý trong bệnh viện và các trung tâm tư nhân chuyên sâu về hôn nhân, gia đình, trị liệu trẻ em...
Lĩnh vực tổ chức - doanh nghiệp: Các doanh nghiệp sẽ ngày càng cần đến chuyên gia tâm lý trong các hoạt động tuyển dụng, đào tạo, xây dựng văn hóa doanh nghiệp và đặc biệt là các chương trình chăm sóc sức khỏe tinh thần cho nhân viên.
Lĩnh vực giáo dục: Vai trò của nhà tâm lý không chỉ dừng ở tham vấn mà còn mở rộng sang nghiên cứu, thiết kế chương trình, hỗ trợ trẻ có nhu cầu đặc biệt.
Các lĩnh vực ứng dụng mới: Tâm lý học sẽ len lỏi sâu hơn vào marketing (nghiên cứu hành vi người tiêu dùng), công nghệ (nghiên cứu trải nghiệm người dùng - UX), thể thao, pháp luật và tư vấn chính sách xã hội.
Tấm bằng cử nhân Tâm lý học, do đó, là một bệ phóng vững chắc tới nhiều con đường sự nghiệp, ở bất cứ nơi nào có sự hiện diện của con người.
Theo ông, những kiến thức và kỹ năng nào là hành trang cần thiết để các tân sinh viên ngành Tâm lý học vừa học tập hiệu quả, phát huy tối đa năng lực trong suốt quá trình đào tạo, vừa chuẩn bị vững vàng cho công việc sau khi ra trường?
PGS,TS. Phạm Mạnh Hà:
Để nắm bắt những cơ hội vàng đó, các tân sinh viên cần trang bị một hành trang toàn diện. Về kiến thức, đó là nền tảng lý thuyết vững chắc, kỹ năng nghiên cứu khoa học và thống kê, cùng với vốn ngoại ngữ tốt để tiếp cận kho tàng tri thức thế giới. Về kỹ năng, điều cốt lõi là khả năng lắng nghe thấu cảm, tư duy phản biện, và đặc biệt là kỹ năng tự nhận thức và tự chăm sóc sức khỏe tinh thần của chính mình. Bởi lẽ, một nhà tâm lý chỉ có thể chữa lành cho người khác khi chính họ là một người cân bằng và vững chãi.
Sự trỗi dậy của ngành Tâm lý học là một tín hiệu đáng mừng, cho thấy xã hội Việt Nam đang ngày càng phát triển theo chiều sâu, quan tâm hơn đến những giá trị nhân văn và hạnh phúc tinh thần của mỗi cá nhân. Đây là một hành trình đầy thử thách nhưng cũng vô cùng ý nghĩa và xứng đáng để thế hệ trẻ tài năng dấn thân và cống hiến.