Vì sao Tòa tuyên ngân hàng tạm giữ sổ tiết kiệm hàng trăm tỷ đồng trong vụ Hà Thành?
Liên quan đến vụ án Nguyễn Thị Hà Thành cùng đồng phạm lừa đảo chiếm đoạt hơn 433 tỉ đồng của các ngân hàng, ngoài các mức án tù nghiêm khắc, HĐXX còn tuyên để ngân hàng tạm giữ sổ tiết kiệm đồng sở hữu của các đại gia.
Sau nhiều ngày xét xử và nghị án, sáng qua (24/3), HĐXX sơ thẩm TAND Hà Nội tuyên án đối với Nguyễn Thị Hà Thành và 25 bị cáo trong các vụ Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Cho vay lãi nặng trong giao dịch dân sự, Vi phạm quy định về hoạt động ngân hàng, hoạt động khác liên quan đến ngân hàng.
Theo đó, HĐXX đã tuyên phạt bị cáo Hà Thành mức án chung thân; 25 bị cáo khác bị tuyên từ 20 tháng cải tạo không giam giữ đến 18 năm tù giam.
Ngoài án phạt tù nghiêm khắc đối với các bị cáo, HĐXX cũng đưa ra phán quyết về phần dân sự trong vụ án.
Theo đó, về trách nhiệm dân sự, HĐXX tuyên buộc bị cáo Nguyễn Thị Hà Thành phải trả lại cho ngân hàng NCB 47,5 tỉ đồng; PVCombank 49,5 tỉ đồng, VAB 274 tỉ và các cá nhân khác.
Toàn bộ số tiền trong các sổ tiết kiệm của vợ chồng ông Đặng Nghĩa Toàn (ở Hàng Tre, Hoàn Kiếm, Hà Nội) tại ba ngân hàng này bị giữ lại để đảm bảo thi hành án về phần trách nhiệm dân sự của Thành.
HĐXX tuyên tạm giao cho các ngân hàng tạm giữ các sổ tiết kiệm cho đến khi thi hành án.
Đối với một số đồng sở hữu khác cũng có quyết định tương tự. Có 3 cá nhân được trả lại sổ tiết kiệm do tiền gửi không liên quan đến hành vi của Thành hoặc khoản vay đã được tất toán xong.
Đối với ý kiến các ngân hàng đề nghị chuyển tư cách tố tụng từ bị hại thành bên liên quan, HĐXX cho rằng, lời khai của bị cáo Thành thể hiện, Thành thực hiện hành vi chiếm đoạt nhằm vào người vay.
Nhưng số tiền do ngân hàng quản lý nên Thành phải dùng thủ đoạn gian dối để rút tiền. Tội phạm hoàn thành khi Thành nhận tiền vay của ngân hàng. Vì vậy, HĐXX không chấp nhận ý kiến của các ngân hàng.
Theo nguyên lí, nếu bị cáo Thành phải trả lại tiền cho ngân hàng thì ngân hàng phải trả lại sổ tiết kiệm của các đồng sở hữu. Theo HĐXX, mối quan hệ giữa Thành và các đồng sở hữu là vay mượn riêng biệt nhau.
Bản chất Thành vay tiền của ngân hàng để rút số tiền đã vay của các đồng sở hữu. Ngân hàng chấp nhận số tiền gửi là tài sản đảm bảo nên việc gửi tiền của Thành là đúng quy định. Số tiền chiếm đoạt được Thành sử dụng cá nhân nên bị cáo phải trả lại cho ngân hàng.
Tài liệu trong vụ án thể hiện, Thành trực tiếp vay tiền của ông Toàn, gửi sổ tiết kiệm đồng sở hữu vào ngân hàng để đảm bảo nếu Thành không trả thì ngân hàng trả.
Thỏa thuận này không đảm bảo ý chí của 2 bên, là hợp đồng giả cách thể hiện việc vay nợ của Thành với vợ chồng ông Toàn. Vì vậy, HĐXX tuyên giành quyền khởi kiện cho ông Toàn với Thành bằng vụ kiện dân sự khác.
Một số đồng sở hữu khác cũng có quyết định tương tự.
Quá trình tố tụng, trước việc các sổ tiết kiệm trị giá hàng trăm tỷ đồng bị 3 ngân hàng phong tỏa, các đồng sở hữu đề nghị ngân hàng trả lại, trong đó có vợ chồng ông Toàn bị giữ lại 122 tỉ đồng.
Họ cho rằng việc góp tiền vào sổ tiết kiệm đồng sở hữu với Thành cũng do tin tưởng lời đảm bảo các nhân viên ngân hàng song cuối cùng lại bị phản bội, dẫn đến mất tiền.
Trong suốt nhiều ngày xét xử trước đó, ông Toàn luôn cho rằng mình gửi tiền tiết kiệm vào ngân hàng đúng quy trình, thực hiện giao dịch trực tiếp với ngân hàng theo sự hướng dẫn của cán bộ, nhân viên ngân hàng.
Toàn bộ số tiền vợ chồng ông gửi vào ngân hàng đều có giấy tờ nộp tiền đầy đủ chữ ký của các cán bộ có thẩm quyền và được đóng dấu pháp nhân của ngân hàng nên phía ngân hàng phải chịu trách nhiệm.
Trong khi đó, các ngân hàng cho rằng bị cáo Hà Thành có trách nhiệm trực tiếp trả tiền cho các chủ sổ tiết kiệm theo quan hệ vay mượn.
Bản án sơ thẩm nêu, do có nhu cầu cần tiền để chi tiêu cá nhân, Nguyễn Thị Hà Thành và Tùng đã bàn nhau sử dụng các pháp nhân gồm Công ty Jeongho Landmark, Công ty MHD và Công ty Eurocell để thực hiện vay tiền tại các ngân hàng rồi chiếm đoạt.