Vị tướng đầu tiên của Việt Nam: Cống hiến tuổi thanh xuân cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
Đồng chí Phùng Chí Kiên (1901-1941) là vị tướng đầu tiên của Việt Nam. Hy sinh anh dũng năm 1941, tấm gương đạo đức cách mạng mẫu mực, kiên trung, bất khuất của đồng chí trở thành một trong những di sản vô cùng quý báu của dân tộc Việt Nam, của quê hương Nghệ An. Tên tuổi, sự nghiệp cách mạng của đồng chí Phùng Chí Kiên mãi được lưu danh cùng muôn đời hậu thế, với sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng ta, nhân dân ta.
Anh dũng hy sinh được truy phong cấp tướng
Đồng chí Phùng Chí Kiên tên thật là Nguyễn Vĩ, sinh ngày 18/5/1901 trong một gia đình nông dân ở làng Mỹ Quan, tổng Vạn Phần (nay là xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An) - một quê hương giàu truyền thống cách mạng. Học hết bậc sơ học, do hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, Nguyễn Vĩ phải nghỉ học ở nhà làm ruộng. Vốn là người thông minh, có ý chí, ham học hỏi nhưng lớn lên trong cảnh đất nước bị thực dân Pháp đô hộ, tận mắt chứng kiến bao nỗi đau của quê hương, đất nước, Nguyễn Vĩ đã sớm mang trong mình những khát khao, hoài bão cứu nhà, cứu nước, cứu dân.
Năm 1925, Nguyễn Vĩ ra làm thuê ở ga Yên Lý, Diễn Châu, sớm tiếp cận ánh sáng tư tưởng tiến bộ, được cán bộ Tổng hội Việt Nam cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu, Trung Quốc về Nghệ Tĩnh hoạt động giác ngộ, dìu dắt, giúp đỡ, kết nạp vào Hội. Tháng 10/1926, Nguyễn Vĩ được tổ chức cử đến Quảng Châu, dự lớp huấn luyện chính trị đầu tiên do Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc tổ chức. Nguyễn Vĩ đổi tên là Phùng Chí Kiên, sau khóa học, Phùng Chí Kiên được Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc gửi vào học Trường Quân sự Hoàng Phố. Năm sau, do Tưởng Giới Thạch phản bội, nhà trường bị đóng cửa, Phùng Chí Kiên cùng với cán bộ cách mạng Việt Nam đứng về phía Đảng Cộng sản Trung Quốc chống lại hành động phản cách mạng của bọn quân phiệt.
Tháng 12/1927, khi khởi nghĩa ở Quảng Châu nổ ra, Phùng Chí Kiên chỉ huy một đơn vị của đội quân cộng sản. Ngày 30/12/1928, đồng chí Phùng Chí Kiên bị quân Tưởng bắt và giam trong nhà tù Quảng Châu. Sau 9 tháng giam cầm, Phùng Chí Kiên được trả tự do và trở lại Trường Quân sự Hoàng Phố.
Tháng 12/1929, Phùng Chí Kiên được kết nạp vào Đảng Cộng sản Trung Quốc, gia nhập Hồng quân và thời gian sau được tín nhiệm và được bổ nhiệm làm Trung đoàn trưởng Trung đoàn 4, quân đoàn 2, Hồng quân Đông Giang.
Tháng 12/1930, Đảng Cộng sản Đông Dương gọi Phùng Chí Kiên về Hồng Kông. Tại đây, đồng chí được gặp lại Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và được truyền đạt những chủ trương, đường lối mới của Đảng sau Hội nghị hợp nhất. Những ngày ở Hồng Kông, đồng chí được kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương.
Tháng 1/1931, Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã gửi Phùng Chí Kiên sang học trường Đại học Phương Đông của Quốc tế cộng sản. Năm 1934, đồng chí Phùng Chí Kiên về Ma Cao, Trung Quốc và tham gia Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng. Tháng 3/1935, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng họp ở Ma Cao, Trung Quốc, đồng chí Phùng Chí Kiên được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được chỉ định vào Ban Thường vụ của Đảng.
Giữa năm 1937, đồng chí Phùng Chí Kiên được cử về Sài Gòn cùng đồng chí Hà Huy Tập trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng trong nước. Sau đó, đồng chí quay lại Hồng Kông, Trung Quốc lãnh đạo Ban Chỉ huy ở ngoài của Đảng thay cho đồng chí Lê Hồng Phong về nước hoạt động, bị bắt vào cuối tháng 10/1938, rồi được trả tự do và bị trục xuất khỏi Hồng Kông.
Ngày 28/1/1941, Phùng Chí Kiên theo Nguyễn Ái Quốc về Pắc Bó, tỉnh Cao Bằng. Ở đây, đồng chí hoạt động bên cạnh Người và đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng, bảo vệ khu căn cứ. Để có tài liệu giảng dạy cho cán bộ địa phương, Nguyễn Ái Quốc lại giao cho Phùng Chí Kiên soạn thảo các bài viết về “Con đường giải phóng dân tộc”, trong đó có nội dung về đấu tranh vũ trang, chiến tranh cách mạng, chiến thuật chiến tranh du kích, đồng thời tổ chức các lớp huấn luyện quân sự cho các địa phương ở Cao Bằng, đào tạo cán bộ Việt Minh cho các tỉnh Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn và các tỉnh miền xuôi.
Tại Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ VIII (tháng 5/1941), đồng chí Phùng Chí Kiên được bầu lại vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng và được phân công phụ trách công tác quân sự Đảng, trực tiếp chỉ đạo khu căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai và Đội Cứu quốc quân.
Tháng 9/1940, khởi nghĩa Bắc Sơn nổ ra, gây tiếng vang lớn trong cả nước, làm thực dân Pháp ra sức tìm cách đối phó. Cuối tháng 6/1941, chúng huy động 4.000 quân mở cuộc càn quét lớn vào khu căn cứ cách mạng của ta nhằm bắt các đồng chí lãnh đạo Đảng, tiêu diệt cơ quan đầu não của Việt Minh và lực lượng vũ trang cách mạng mới hình thành. Phùng Chí Kiên chỉ huy đội Cứu quốc quân Bắc Sơn chiến đấu, phá một số trận càn lớn của Pháp. Do chênh lệch lực lượng và vũ khí, Ban lãnh đạo căn cứ Bắc Sơn - Võ Nhai quyết định để lại một tiểu đội chặn đối phương, còn hai tiểu đội phá vòng vây, rút lên Cao Bằng để bảo toàn lực lượng.
Ngày 19/8/1941, cánh quân do đồng chí Phùng Chí Kiên và Lương Văn Tri (Ủy viên thường vụ Xứ ủy Bắc Kỳ) chỉ huy qua Pò Kép (châu Na Rì, Bắc Kạn) thì bị địch phục kích, nhưng đơn vị thoát được. Ngày 21/8, đơn vị lại bị phục kích tại xã Bằng Đức trên đường đi Cao Bằng. Mặc dù bị thương nặng, đồng chí Phùng Chí Kiên vẫn giữ chặt khẩu súng, bắn chặn quân địch để đồng đội thoát khỏi vòng vây. Bắn hết viên đạn cuối cùng, đồng chí sa vào tay giặc.
Ngày 22/8/1941, địch chặt đầu đồng chí rồi đem cắm ở đầu cầu Ngân Sơn để hòng uy hiếp tinh thần cán bộ và nhân dân địa phương.
Ngày 23/9/1947, ghi nhận công lao của đồng chí Phùng Chí Kiên trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và xây dựng lực lượng vũ trang cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký Sắc lệnh số 89/SL truy phong cấp tướng cho đồng chí Phùng Chí Kiên. Đây là sắc lệnh phong tướng đầu tiên của Nhà nước ta.
Tháng 11/2003, Đảng, Chính phủ ra quyết định công nhận đồng chí Phùng Chí Kiên là nguyên Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng (khóa I), cán bộ lãnh đạo quân đội cấp tướng, liệt sĩ hy sinh anh dũng trong chiến đấu.
Suốt đời phấn đấu, hy sinh vì lợi ích của Đảng, của nhân dân
Tận mắt chứng kiến bao nỗi đau thương của quê hương, đất nước và sớm giác ngộ cách mạng, đồng chí Phùng Chí Kiên đã giành trọn đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc và hạnh phúc của nhân dân.
Những năm học tập, hoạt động ở nước ngoài (từ tháng 10/1926 đến tháng 7/1936 và từ tháng 12/1937 đến tháng 12/1940), hoặc lúc sa vào ngục tù đế quốc (1931 và từ tháng 10/12/1937) cũng như khi trở về Tổ quốc chỉ đạo và trực tiếp tham gia cuộc chiến đấu chống thực dân phong kiến (tháng 8/1936 đến tháng 9/1937 và 1941), dù ở đâu, lúc nào, đồng chí cũng luôn nêu cao ý chí cách mạng kiên cường, bản lĩnh chính trị vững vàng, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân giao phó.
Trên mặt trận chính trị - tư tưởng, đồng chí là một người cộng sản kiên cường, hai lần được tín nhiệm bầu làm Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương (1935, 1941) ở vào những thời điểm quan trọng của cách mạng Việt Nam. Tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 8 (5/1941), đồng chí góp nhiều ý kiến quan trọng vào các nội dung của dự thảo Nghị quyết, nhất là về chủ trương xúc tiến chuẩn bị điều kiện cho cuộc khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền, góp phần vào sự chuyển hướng chỉ đạo chiến lược của Đảng trong giai đoạn cách mạng mới.
Trên lĩnh vực quân sự, đồng chí là vị chỉ huy gan dạ và tài ba, một nhà quân sự xuất sắc, giỏi cả về lý luận và thực tiễn. Vận dụng những kiến thức quân sự được học tại Trường Quân sự Hoàng Phố, tại cuộc khởi nghĩa Quảng Châu (12/12/1927), đồng chí được giao làm Đại đội trưởng một đơn vị quân cách mạng, tổ chức, chỉ huy chiến đấu, bẻ gãy nhiều cuộc tiến công của bọn quân phiệt, góp phần bảo vệ khu Xô-viết Hải - Lục Phong.
Đồng chủ trì Hội thảo khoa học “Đồng chí Phùng Chí Kiên với cách mạng Việt Nam và quê hương Nghệ An” do Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Ban Tuyên giáo Trung ương và Tỉnh ủy Nghệ An phối hợp tổ chức mới đây, GS. TS Nguyễn Xuân Thắng, Ủy viên Bộ Chính trị, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương khẳng định, trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng, đồng chí Phùng Chí Kiên đã vượt qua mọi gian khổ, hiểm nguy để hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Hai lần bị bắt giam, đày ải trong chốn lao tù tàn bạo của chính quyền Tưởng Giới Thạch và thực dân Anh, đồng chí luôn vững vàng tinh thần cách mạng, giữ vững khí tiết của người cộng sản. Hoạt động trong hoàn cảnh bí mật, đầy gian nguy, thách thức, đồng chí vẫn luôn kiên định với mục tiêu, lý tưởng và con đường đã chọn, hết mực trung thành với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc, nêu tấm gương sáng về tinh thần kiên trung, bất khuất của người cộng sản.
Với 16 năm hoạt động cách mạng liên tục, kể từ khi được giác ngộ lý tưởng đấu tranh giải phóng dân tộc cho đến hơi thở cuối cùng, đồng chí đã có những cống hiến to lớn đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam. Đồng chí là nhà lãnh đạo tiền bối tiêu biểu của Đảng và cách mạng Việt Nam, người học trò xuất sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà chính trị, quân sự song toàn, người chiến sĩ kiên cường của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Đồng chí Nguyễn Xuân Thắng nhấn mạnh, hình ảnh đồng chí Phùng Chí Kiên dù bị kẻ địch phục kích bắn trọng thương, vẫn kiên quyết ở lại đánh chặn địch để đồng đội rút lui, kiên cường chiến đấu đến hơi thở cuối cùng trước mũi súng quân thù là biểu tượng sâu sắc cho bản lĩnh, khí phách và tình cảm cao đẹp của người chiến sĩ cộng sản. Đồng chí ngã xuống nhưng cuộc đời cách mạng cao đẹp, những hoạt động và cống hiến to lớn của đồng chí vẫn sống mãi trong sự nghiệp cách mạng vẻ vang của Đảng và dân tộc Việt Nam, vẫn mãi là tấm gương đạo đức cách mạng ngời sáng cho các thế hệ cán bộ, đảng viên học tập, noi theo.