Vĩ tuyến 17- Mùa xuân ấy không thể nào quên

Mùa xuân 1972, chúng tôi đón Tết Nhâm Tý ở tuyến lửa Vĩnh Linh. Đêm giao thừa ầm ì tiếng súng dọc vùng giới tuyến. Một nỗi nhớ nhà, nhớ Hà Nội quay quắt ập đến. Trong bóng đêm, tôi ra sườn đồi sim, đứng nhìn về phía Bắc và nhớ đến những người thân yêu của mình. Tôi nhớ gương mặt trầm tư của bố ngày tôi vào chiến trường. Tôi nhớ mẹ tôi đêm giao thừa năm nào cũng thắp hương cúng tổ tiên trên mảnh sân nhỏ trước nhà với một ngọn đèn dầu nhỏ đặt bên bể nước…

Vài tuần trước, nhà báo Phạm Hoạt từ Vĩnh Linh ra Hà Nội đón nhà nhiếp ảnh Xuân Lâm, tôi và lái xe Trương Đại Chiến. Tôi không bao giờ quên không khí chuẩn bị hối hả, gấp gáp trước ngày lên đường. Đấy là chuyến đi xa đầu tiên trong cuộc đời làm báo của tôi sau 2 năm đầu làm phóng viên TTXVN tại Hà Tây.

Qua nhiều vùng đất mà tôi chỉ mới biết qua sách vở. Những dặm dài Hàm Rồng, Đèo Ngang, Hà Tĩnh, Quảng Bình… Cuộc sống thời chiến của miền Trung khói lửa cho tôi những ấn tượng rất mạnh. Qua Đèo Ngang, lần đầu tiên tôi gần biển đến thế. Một Đèo Ngang trong thơ Bà huyện Thanh Quan vừa gần gũi thân thuộc, vừa mới lạ bất ngờ. Chúng tôi gặp hai tàu chiến của hạm đội 7 đang ở ngoài khơi. Hai chiếc tàu khá gần, mắt thường nhìn thấy rất rõ. Mọi người bảo nếu có ống nhòm sẽ nhìn thấy cả lính Mỹ đi lại trên boong tàu khi thời tiết tốt… Dù địch lởn vởn cách không xa nhưng trên quốc lộ, từng đoàn xe phủ bạt kín mít vẫn nhằm hướng tiền tuyến mà đi. Có những đơn vị hành quân bằng xe tải. Nhiều gương mặt trẻ trung lướt qua. Họ cùng thế hệ với chúng tôi và đang sẵn sàng đi đến nơi thử thách ác liệt nhất.

Các phóng viên TTXVN và Đài Tiếng nói Việt Nam nơi tuyến lửa Vĩnh Linh 1972. Tứ trái sang: Phạm Tài Nguyên, nhà thơ - nhà báo Trúc Thông (Đài TNVN), Lam Thanh, Trương Đại Chiến, Trần Mai Hưởng, Xuân Lâm.

Các phóng viên TTXVN và Đài Tiếng nói Việt Nam nơi tuyến lửa Vĩnh Linh 1972. Tứ trái sang: Phạm Tài Nguyên, nhà thơ - nhà báo Trúc Thông (Đài TNVN), Lam Thanh, Trương Đại Chiến, Trần Mai Hưởng, Xuân Lâm.

Một cuộc gặp gỡ rất tình cờ trên đường khi chúng tôi dừng chân ở Đèo Ngang với tổ phóng viên thông tấn quân sự đi theo Mặt trận B5 cũng trên đường hành quân. Chúng tôi gặp các nhà báo Nghĩa Dũng, Vũ Tạo và một số anh nữa. Đây là lần đầu tiên tôi được gặp anh Dũng, anh Tạo, mặc dù trước đó, tôi đã biết tiếng 2 phóng viên chiến trường lừng danh này từ những bức ảnh trong chiến dịch Lam Sơn năm 71 hoặc trước đó nữa. Bức ảnh “Nhằm thẳng quân thù mà bắn” của anh Vũ Tạo chụp tại một trận địa cao xạ ở Bắc Giang đã quen thuộc với nhiều bạn đọc.

Tôi nhớ gương mặt rất bình thản, tự tin của anh Nghĩa Dũng và anh Vũ Tạo. Các anh vào sinh ra tử đã nhiều và điều đó hiển hiện trên gương mặt họ. Anh Nghĩa Dũng mặc áo bốn túi, bên trong là một áo sợi màu phòng không có khuy cài. Năm ấy, mùa đông miền Bắc rét căm căm và lan vào đến miền Trung. Nghĩa Dũng phanh áo khoác, chỉ cho tôi xem một vết ố trên chiếc áo sợi rồi nói:

- Đây này, thằng con đái dầm ra cả áo hôm mình về thăm. Vợ bảo giặt, mình nói khỏi cần, có mùi nước đái càng đỡ nhớ con!

Cái cười vui của anh nhưng đâu đó vẫn thoáng nét buồn… Lúc chia tay, Nghĩa Dũng ôm tôi rất chặt như ôm một đứa em trẻ tuổi, chưa nếm mùi trận mạc với lời động viên:

- Cố gắng nhé chú em! Cần nhất là đừng sợ, phải bình tĩnh trong mọi hoàn cảnh…

Chuyện về chiếc áo có mùi nước đái con của nhà báo Nghĩa Dũng cứ ám ảnh tôi mãi. Một linh tính mơ hồ trong buổi gặp ấy cứ bám lấy tôi. Đến lúc nghe tin anh hy sinh ngay trong đợt tiến công đầu tiên khi cùng bộ đội tiến đánh một cao điểm ở phía tây Quảng Trị, tôi rất bàng hoàng. Anh em đồng nghiệp vô cùng thương tiếc anh, nhà báo liệt sĩ đầu tiên hy sinh trong tổng tiến công năm 1972…

Chúng tôi đón Tết đơn sơ nhưng ấm cúng. Khẩu phần thời chiến nơi đất lửa cũng có rượu chanh, mứt Tết, trà Hồng Đào, thịt hộp… Sáng mồng một Tết, chuyến xuất hành đầu năm của nhóm phóng viên TTXVN vừa tăng cường vào đặc khu Vĩnh Linh là thăm cầu Hiền Lương. Cho đến bây giờ, tôi vẫn nhớ như in quang cảnh cây cầu và dòng sông Bến Hải thiêng liêng lần đầu tiên được nhìn thấy trong đời. Trên vùng đất đạn bom cày xới tưởng như không còn sự sống, dòng sông nhỏ vẫn xanh trong một cách kỳ lạ. Cây cầu bị đánh phá nhiều lần chỉ còn chơ vơ mấy nhịp ở giữa, gợi hình ảnh mà một nhà thơ nước ngoài đã ví như “chiếc lẫy đàn bị đứt ngang” trên thân thể đất nước Việt Nam mang dáng đàn bầu. Bên kia sông là Dốc Miếu, Cồn Tiên, đồi 31… những cứ điểm nổi tiếng trên vành đai điện tử mà trước đây chúng tôi chỉ nghe nói đến.

Sau chuyến xuất hành đầu năm ra thăm cầu Hiền Lương, mấy hôm sau, tôi có chuyến đi với trưởng phân xã Phạm Hoạt về Vĩnh Chấp, Cửa Tùng. Cũng lại là lần đầu tiên tôi đến cửa sông ấy, một cửa sông nhỏ lẽ ra rất hiền hòa, thân thuộc do sự sắp đặt của lịch sử mà trở thành nơi đất nước chia đôi. Những đồi cát nhỏ trắng dịu, hàng phi lao xanh thẫm, nước biển xanh trong… Không khí chiến tranh vẫn hằn rõ với những chiến hào xe sâu vào lòng đất, những nhà hầm, địa đạo chìm nổi và máy bay do thám lơ lửng trên không suốt đêm ngày để hễ có một dấu hiệu nào của sự sống là ngay lập tức, pháo từ biển, từ các căn cứ bên kia giới tuyến sẽ chụp xuống.

Bài thơ đầu tiên tôi viết ở tuyến lửa, bài “Giếng nước dưới địa đạo”, đăng trên Báo Văn nghệ ít ngày sau đó. Sau này trong một lần hành quân, tình cờ tôi được nghe nghệ sĩ Trần Thị Tuyết ngâm bài thơ đó trong buổi Tiếng Thơ của Đài Tiếng nói Việt Nam - Một kỷ niệm rất đẹp về chuyến đi về Cửa Tùng lần ấy.

Ngay sau chuyến đi về Vĩnh Chấp, chúng tôi có chuyến công tác sang bên kia giới tuyến. Cách cầu Hiền Lương không xa có một bến đò dã chiến. Chúng tôi đến bến đò, chờ giao liên dẫn đi. Lần đầu đặt tôi được đặt chân lên bờ phía Nam khi đò cập bến. Một cảm giác mừng vui, xen lẫn hồi hộp, lạ lẫm. Miền Nam trong khói lửa, chia cắt đến với tôi qua những bài học đầu tiên cắp sách đến trường, một miền Nam trước đó rất xa xôi đã trở nên gần gũi và hiện thực…

Từ cơ quan huyện ủy, chúng tôi đi thực tế về nơi đứng chân của đội du kích xã Gio Mỹ. Khu căn cứ này nằm ở khoảng giữa Đồi 31 và sông Hiền Lương, trên một triền cát trắng có những hàng phi lao còn sót lại qua đạn bom. Những căn hầm chìm sâu trong cát. Cuộc sống của những người du kích ngay trong tầm pháo địch vẫn căng tràn sức sống tuổi trẻ. Tôi nhớ rõ buổi anh em trong đoàn, với sự giúp đỡ của Bí thư xã Mai Tiến Đồng và xã đội trưởng Nguyễn Văn Em đi thăm anh em du kích. Chúng tôi đều rất trẻ nên dễ gần, chuyện trò, đùa vui như pháo rang. Chúng tôi tìm hiểu cuộc sống của anh chị em và chụp ảnh cuộc sống sinh hoạt ở đây: cảnh luyện tập, sẵn sàng chiến đấu, tăng gia sản xuất, sinh hoạt tập thể.

Chân dung nữ du kích Thu Hồng (xã Gio Mỹ, huyện Gio Linh, Quảng Trị) do nhà báo Trần Mai Hưởng chụp trước khi chị Hồng hy sinh trong Tổng tiến công 1972.

Chân dung nữ du kích Thu Hồng (xã Gio Mỹ, huyện Gio Linh, Quảng Trị) do nhà báo Trần Mai Hưởng chụp trước khi chị Hồng hy sinh trong Tổng tiến công 1972.

Trong số những nữ du kích vùng cát trẻ trung và mạnh mẽ, tôi để ý đến một cô gái mà vẻ ngoài rất khác với số đông. Đó là Thu Hồng, cán bộ đoàn kiêm giáo viên văn hóa của đội; một cô gái trắng trẻo, xinh đẹp với gương mặt bầu bĩnh, nét cười tươi, giọng nói nhẹ nhàng. Chúng tôi chụp ảnh cô trên bãi luyện tập cùng đồng đội, rồi lại gặp cô trong hầm khi đang dạy văn hóa cho anh chị em. Khi hỏi chuyện, chúng tôi mới biết Thu Hồng vừa từ miền Bắc trở về và gia nhập đội du kích được mấy tháng nay. Cô được gửi ra Bắc học, nhưng đang học phổ thông cô đã tình nguyện xin về quê chiến đấu.

Thu Hồng rất gần gũi, cởi mở khi trò chuyện. Cô học ở Đông Triều (tỉnh Quảng Ninh), trong một trường dành cho học sinh miền Nam, nơi cả bốn anh chị em trong nhà đều theo học. Nguyện vọng lớn nhất của cô là được về quê hương chiến đấu và cân nhắc mãi, tổ chức mới đồng ý với Hồng. Về Quảng Trị, mặc dù bố mẹ đều là lãnh đạo tỉnh nhưng Hồng tình nguyện tham gia du kích xã, chấp nhận cuộc sống nhiều gian khổ, hy sinh.

Sau chuyến đi ấy, bức ảnh về du kích xã Gio Mỹ (gọi tắt là xã M để giữ bí mật) của anh em trong đoàn được nhiều báo ở Hà Nội đăng. Riêng bức ảnh tôi chụp Thu Hồng đang ngắm bắn, gương mặt xinh đẹp sáng lên trong nắng và rất duyên dáng dưới vành mũ tai bèo được báo Quân đội Nhân dân dùng rất trang trọng. Đây cũng là bức ảnh đăng báo đầu tiên trong đời cầm máy của tôi.

Tôi nhớ mãi hình ảnh Thu Hồng lúc chia tay. Em đứng bên cửa hầm, dưới tán phi lao, ánh mắt nhìn xa xăm. Chúng tôi chúc nhau nhiều điều may mắn, hẹn sẽ gặp lại khi quê hương giải phóng. Cả hai chúng tôi cũng như mọi người đều cảm nhận rất rõ ngày Quảng Trị giải phóng không còn xa nữa. Song tôi không thể ngờ đó là lần cuối cùng chúng tôi gặp nhau. Ít ngày sau, Thu Hồng đã anh dũng hy sinh khi cùng đồng đội đánh chiếm căn cứ địch ở Bến Ngự…

Mùa xuân đầu tiên trên vĩ tuyến 17, ngay trước những ngày chiến dịch Tổng tiến công 1972 bắt đầu, in đậm trong ký ức của tôi và bè bạn. Từ những ngày xuân ấy, chúng tôi đã trải qua cả một “mùa hè đỏ lửa” của những phóng viên TTXVN-TTXGP trên chiến trường Quảng Trị khốc liệt. Tiếp đó là những hành trình đầy gian khổ, hy sinh nhưng chúng tôi may mắn được tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh và có mặt tại Dinh Độc lập thời điểm lịch sử sang trang vào ngày 30/4/1975.

Trần Mai Hưởng

Nguồn CAND: https://cand.com.vn/hoat-dong-ll-cand/vi-tuyen-17-mua-xuan-ay-khong-the-nao-quen-i679755/