Việt Nam có thể trở thành biểu tượng của hạnh phúc và thịnh vượng trên thế giới
'Việt Nam có thể trở thành biểu tượng của hạnh phúc và thịnh vượng, không chỉ ở Đông Nam Á mà trên toàn thế giới', Giáo sư Hà Vĩnh Thọ nhận định.
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ là một Việt kiều Pháp đang sinh sống tại Thụy Sỹ. Ông từng đảm nhận trọng trách Giám đốc Trung tâm Tổng hạnh phúc quốc gia tại Bhutan từ năm 2012 đến năm 2018.
Mới đây, ông đã chia sẻ với Báo VietNamNet góc nhìn của ông về những điểm sáng của Việt Nam và thế giới, cũng như những điều cần lưu ý trên hành trình xây dựng quốc gia hạnh phúc.
Nỗ lực phát triển các chỉ số hạnh phúc
Thưa Giáo sư, những năm gần đây, Việt Nam liên tục tăng bậc trên bảng xếp hạng trong Báo cáo Hạnh phúc thế giới. Theo góc nhìn của Giáo sư, đâu là những yếu tố tích cực đem lại kết quả này?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Sự cải thiện của Việt Nam trong bảng xếp hạng Báo cáo Hạnh phúc thế giới có được là do một số yếu tố như: Sự phát triển kinh tế - xã hội đáng kể, những cải thiện về chăm sóc sức khỏe và giáo dục, cũng như sự cải thiện mạnh mẽ ý thức về các giá trị cộng đồng và gia đình.
Ngoài ra, Việt Nam cũng có nhiều nỗ lực trong việc bảo tồn di sản văn hóa.
Năm 2023, Việt Nam thăng hạng từ vị trí thứ 83 lên 79, đứng đầu khu vực Đông Nam Á. Năm 2024 Việt Nam đứng thứ 54 trong tổng số 143 quốc gia/vùng lãnh thổ được khảo sát, nhưng lại đứng thứ 4 trong khu vực Đông Nam Á. Có vẻ như trong lúc Việt Nam dần có những bước tiến đáng khích lệ thì các nước trong khu vực đang có những bước chạy nhanh hơn. Giáo sư có bình luận gì về điều này?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Sự tiến bộ dần dần của Việt Nam và tốc độ nhanh hơn của các nước láng giềng cho thấy bản chất năng động, đa diện của hạnh phúc và phát triển.
Cách tiếp cận của Việt Nam nhấn mạnh đến tiến bộ kinh tế, gắn kết xã hội và bản sắc văn hóa, đưa ra một con đường khác biệt hướng tới hạnh phúc, nhưng không phải lúc nào cũng phù hợp với các thước đo được sử dụng trong Báo cáo Hạnh phúc thế giới.
Dẫu sao, tôi nghĩ Việt Nam cũng nên phân tích xem lĩnh vực bảo tồn và phục hồi môi trường của mình có đạt được tiến bộ đầy đủ so với các nước châu Á khác hay không.
Bhutan được biết đến là một trong những quốc gia hạnh phúc nhất thế giới. Từng làm Giám đốc Chương trình của Trung tâm Tổng hạnh phúc quốc gia ở Bhutan, theo Giáo sư, Việt Nam có điểm tương đồng nào với Bhutan về nỗ lực phát triển các chỉ số hạnh phúc?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Cả Việt Nam và Bhutan đều ưu tiên bảo tồn văn hóa và gắn kết xã hội, những thành phần không thể thiếu của Tổng hạnh phúc quốc gia (GNH). Cả hai nước đều có những giá trị truyền thống lấy cảm hứng từ Phật giáo và thờ phụng tổ tiên; đều coi trọng sự độc lập và tự hào về bản sắc riêng biệt của mình.
Tuy nhiên, Bhutan đã chính thức áp dụng GNH như một triết lý phát triển đặt trọng tâm vào việc đo lường và thúc đẩy phúc lợi tâm lý, quản trị tốt và phát triển kinh tế xã hội bền vững. Việt Nam có thể được hưởng lợi từ việc áp dụng các chính sách và công cụ đo lường phúc lợi tương tự, tăng cường tập trung vào hạnh phúc bên cạnh tăng trưởng kinh tế.
Việt Nam có tốc độ phát triển kinh tế và công nghệ nhanh hơn nhiều so với Bhutan. Việc tái thiết đất nước sau hàng chục năm chiến tranh là hết sức cần thiết, và sự phát triển của Việt Nam có thể được coi là một điều kỳ diệu. Nhưng bây giờ là lúc phải cân bằng giữa phát triển kinh tế với sự bền vững về môi trường.
GNH ngày càng quan trọng trong thế giới hội nhập, toàn cầu hóa
Giáo sư đánh giá thế nào về tầm quan trọng của chỉ số GNH trong thế giới hội nhập, toàn cầu hóa hiện nay?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Chỉ số GNH ngày càng quan trọng trong một thế giới hội nhập và toàn cầu hóa vì nó đưa ra giải pháp thay thế cho các mô hình phát triển lấy GDP làm trung tâm. Một số quốc gia đã lấy cảm hứng từ chỉ số Tổng hạnh phúc quốc gia của Bhutan, bắt đầu kết hợp các thước đo về hạnh phúc, phúc lợi vào việc hoạch định chính sách và phân bổ ngân sách của họ.
Chẳng hạn, New Zealand đã ra mắt "Ngân sách phúc lợi" vào năm 2019, tập trung vào sức khỏe tâm thần, giảm nghèo ở trẻ em, giải quyết sự bất bình đẳng mà người Maori bản địa và người Thái Bình Dương phải đối mặt, phát triển mạnh mẽ kỹ thuật số, và chuyển đổi sang nền kinh tế bền vững, phát thải thấp .
Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất đã bổ nhiệm Bộ trưởng Bộ Hạnh phúc vào năm 2016, nhằm đưa quốc gia này lọt vào Top 5 quốc gia hạnh phúc nhất thế giới thông qua một loạt chương trình và sáng kiến.
Phần Lan thường xuyên đứng đầu trong Báo cáo Hạnh phúc Thế giới, đã đưa một loạt biện pháp đảm bảo phúc lợi vào chính sách của chính phủ. Đất nước này đặt trọng tâm ưu tiên vào các lĩnh vực bình đẳng xã hội và phúc lợi, giáo dục và môi trường bền vững.
Iceland ban hành nhiều biện pháp đảm bảo hạnh phúc và phúc lợi cho người dân, tập trung vào bình đẳng giới, môi trường và phúc lợi xã hội.
Scotland đã ra mắt Khung hiệu suất quốc gia, bao gồm các chỉ số phúc lợi cùng với các chỉ số kinh tế, y tế và xã hội, làm sở cứ để định hướng phát triển chính sách.
Những ví dụ nêu trên cho thấy mối quan tâm quốc tế ngày càng tăng trong việc coi hạnh phúc và phúc lợi là những thành phần thiết yếu của sự phát triển và hoạch định chính sách quốc gia ngoài các thước đo tăng trưởng kinh tế đơn thuần.
Bằng cách nhấn mạnh đến sự thịnh vượng và bền vững toàn diện, GNH có thể nâng cao khả năng cạnh tranh quốc gia bằng cách thúc đẩy một xã hội hạnh phúc và bền vững hơn. GNH cũng có thể thu hút quan hệ đối tác toàn cầu, đầu tư bền vững và thúc đẩy cộng đồng quốc tế quan tâm hỗ trợ cho sự phát triển bền vững, công bằng.
Có ý kiến cho rằng Tổng hạnh phúc quốc gia (GNH) còn quan trọng hơn cả Tổng sản phẩm quốc nội (GDP). Giáo sư nghĩ sao về ý kiến này?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Chỉ riêng tăng trưởng kinh tế không thể đảm bảo phúc lợi và hạnh phúc. Phát triển bền vững, bảo tồn môi trường, văn hóa và phúc lợi xã hội là những điều cần thiết cho một xã hội trọn vẹn và hạnh phúc.
Ý tưởng này thách thức các mô hình phát triển truyền thống, ủng hộ cách tiếp cận cân bằng xem xét cả khía cạnh vật chất và phi vật chất của hạnh phúc.
Chỉ số Tổng hạnh phúc quốc gia gồm những yếu tố cơ bản nào?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: GNH bao gồm 9 lĩnh vực: Sức khỏe tâm lý; sức khỏe; giáo dục; sử dụng thời gian; đa dạng văn hóa và khả năng phục hồi văn hóa; quản trị tốt; sức sống cộng đồng; đa dạng sinh thái và khả năng phục hồi sự đa dạng sinh thái; mức sống.
Các lĩnh vực này cung cấp một khuôn khổ toàn diện để đánh giá và thúc đẩy sự thịnh vượng của từng cá nhân cũng như toàn xã hội. Trong đó nhấn mạnh đến việc cân bằng các điều kiện cấu trúc, hệ thống bên ngoài để tạo ra một môi trường phát triển thuận lợi, cùng với “kỹ năng hạnh phúc” hoặc các điều kiện bên trong hỗ trợ sức khỏe thể chất và tinh thần.
Sự phát triển của khoa học công nghệ đem lại cơ hội và thách thức gì cho sự phát triển của chỉ số Tổng hạnh phúc quốc gia trên thế giới và tại Việt Nam?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Sự phát triển của khoa học công nghệ mang lại cả cơ hội và thách thức cho GNH. Trong khi những tiến bộ công nghệ có thể nâng cao chất lượng cuộc sống, thúc đẩy sự phát triển bền vững và cung cấp các giải pháp sáng tạo cho những thách thức xã hội và môi trường, thì cũng có nguy cơ làm trầm trọng thêm tình trạng bất bình đẳng, thúc đẩy chủ nghĩa tiêu dùng và tách rời các cá nhân khỏi thiên nhiên, cộng đồng. Cân bằng các yếu tố này là điều rất quan trọng để thúc đẩy GNH trong bối cảnh thay đổi công nghệ toàn cầu.
Những điểm sáng của Việt Nam
Quay lại câu chuyện Tổng hạnh phúc quốc gia của Việt Nam, theo Giáo sư, đâu là những điểm sáng?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Cam kết của Việt Nam về phát triển kinh tế mạnh mẽ, đảm bảo công bằng xã hội và nỗ lực bảo tồn văn hóa là những điểm sáng trong bức tranh GNH hiện tại. Cùng với đó là những nỗ lực của đất nước trong việc giảm nghèo, phổ cập giáo dục, chăm sóc sức khỏe, bảo tồn và phát huy di sản văn hóa, đề cao các giá trị lấy cộng đồng làm trung tâm… Qua đó tạo nền tảng vững chắc để xây dựng một xã hội hạnh phúc.
Tôi đã gặp một số lãnh đạo doanh nghiệp rất cởi mở trong việc triển khai GNH trong công ty của họ. Bộ Giáo dục và Đào tạo dường như đã cam kết thực thi tầm nhìn “Trường học hạnh phúc” vì tương lai của giáo dục Việt Nam.
Có câu nói rằng “Lãnh đạo hạnh phúc thay đổi thế giới”. Giáo sư có khuyến nghị gì để xây dựng và phát triển các lãnh đạo hạnh phúc tại Việt Nam?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Xây dựng những nhà lãnh đạo hạnh phúc ở Việt Nam liên quan đến việc trau dồi chánh niệm, lòng nhân ái và khả năng lãnh đạo có đạo đức. Các chương trình thúc đẩy sự tự nhận thức, trí tuệ cảm xúc có thể trang bị cho các nhà lãnh đạo những kỹ năng để ưu tiên sự thịnh vượng của cộng đồng, lãnh đạo bằng sự liêm chính và đồng cảm.
Viện Học tập vì hạnh phúc và an sinh Eurasia (ELI) sẽ cung cấp lớp học nâng cao về GNH bắt đầu từ tháng 8/2024 nhằm trực tiếp giải quyết những vấn đề tồn tại, vướng mắc để góp phần hiện thực hóa các mục tiêu phát triển lãnh đạo hạnh phúc tại Việt Nam trong thời gian tới.
Theo Giáo sư, xây dựng lãnh đạo hạnh phúc và xây dựng người dân hạnh phúc, việc nào khó hơn?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Xây dựng những nhà lãnh đạo hạnh phúc có thể khó khăn hơn người dân hạnh phúc do sự phức tạp của động lực quyền lực, sức nặng của trách nhiệm và áp lực của việc ra quyết định.
Tuy nhiên, những nhà lãnh đạo hạnh phúc đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các chính sách và môi trường thúc đẩy hạnh phúc của người dân.
Một cách tiếp cận toàn diện nhấn mạnh đến sự phát triển cá nhân, sự lãnh đạo có đạo đức và sự tham gia của cộng đồng là điều cần thiết để nuôi dưỡng cả những nhà lãnh đạo và công dân hạnh phúc. Các nhà lãnh đạo phải là những tấm gương có thể truyền cảm hứng cho những người dân bình thường phấn đấu đạt được những thành tựu cao hơn. Điều này đã lặp đi lặp lại trong suốt lịch sử Việt Nam.
Giáo sư đã có rất nhiều nỗ lực trong việc xây dựng trẻ em hạnh phúc, trường học hạnh phúc và doanh nghiệp hạnh phúc ở Việt Nam. Cho tới thời điểm hiện tại, Giáo sư đã hài lòng những kết quả đạt được?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Những nỗ lực xây dựng trẻ em, trường học và tổ chức hạnh phúc ở Việt Nam đã đạt được tiến bộ đáng kể trong việc thúc đẩy hạnh phúc và trí tuệ cảm xúc.
Tuy nhiên, vẫn còn thách thức trong việc đảm bảo những sáng kiến này được triển khai rộng rãi và tích hợp vào cơ cấu xã hội. Vẫn còn không ít khó khăn trong việc nhân rộng các sáng kiến tiên phong trong giáo dục và kinh doanh, để chúng có thể có tác động lớn hơn đến toàn xã hội.
Thời gian tới, Giáo sư sẽ tiếp tục có những chương trình hành động nào để cùng chung tay xây dựng Việt Nam hạnh phúc?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Dựa trên nguyên tắc Tổng hạnh phúc quốc gia và những hiểu biết sâu sắc từ “Những đứa trẻ hạnh phúc”, “Trường học hạnh phúc” và “Tổ chức hạnh phúc”, chúng tôi sẽ tiếp tục thúc đẩy cách tiếp cận cân bằng trong giáo dục nhằm giải quyết cả sự xuất sắc trong học tập cũng như phúc lợi tổng thể của giáo viên và học sinh. Trong thời đại AI (trí tuệ nhân tạo), giáo dục đang trong thời kỳ chuyển đổi căn bản và phải thích ứng với thực tế mới bằng cách tập trung nhiều hơn vào các kỹ năng cảm xúc và xã hội, sáng tạo, đổi mới, làm việc nhóm, đoàn kết…, những năng lực mà máy móc không thể làm chủ được.
Trong lĩnh vực kinh doanh, tôi hy vọng ngày càng có nhiều công ty và doanh nhân nhận thức được rằng bên cạnh lợi nhuận tài chính, họ còn có cả trách nhiệm và cơ hội để trở thành động lực phát triển vì lợi ích của xã hội, nâng cao phúc lợi của tất cả các bên liên quan, cân bằng sản xuất - tiêu dùng với sự bền vững của sinh thái.
Chúng tôi cũng muốn thúc đẩy một xã hội hòa nhập, nơi trẻ em và người khuyết tật được hòa nhập hoàn toàn trong trường học và sau này là tại nơi làm việc. Để hỗ trợ mục tiêu này, chúng tôi đang xây dựng một chương trình đào tạo dành cho giáo viên và nhà giáo dục về giáo dục đặc biệt và trị liệu xã hội với sự cộng tác của Bộ Giáo dục và Đào tạo, Đại học Huế cùng chính quyền địa phương.
Ngoài ra, tôi sẽ cùng với Công ty Thái Hà Books sớm xuất bản hai cuốn sách mới với tựa đề: “Gia đình hạnh phúc” và “Con đường dẫn đến hạnh phúc: Muôn mặt tình yêu”.
Nên thành lập trung tâm nghiên cứu quốc gia về GNH
Giáo sư hình dung thế nào về một Việt Nam hạnh phúc trong tương lai?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Các thế hệ đi trước đã hy sinh anh dũng để giành được Độc lập - Tự do, thế hệ ngày nay có thể tập trung nỗ lực nâng cao Hạnh phúc.
Tầm nhìn của tôi về một Việt Nam hạnh phúc là một xã hội mà mọi cá nhân đều cảm thấy được trân trọng, được kết nối và gắn kết với cộng đồng của mình. Đó là một Việt Nam phát triển kinh tế không đánh đổi bằng sự bền vững môi trường hay bản sắc văn hóa.
Trong tầm nhìn này, hạnh phúc và phúc lợi cũng được đánh giá là chỉ số quan trọng như các chỉ số kinh tế, GDP. Chúng ta sẽ giáo dục, nuôi dưỡng những công dân giàu lòng nhân ái, có chánh niệm, những người được chuẩn bị tốt để đối mặt với những thách thức của thế kỷ 21. Các cộng đồng kết nối sâu đậm với bản sắc văn hóa truyền thống, đồng thời vẫn sẵn sàng cởi mở và hòa nhập với sự đa dạng, đổi mới.
Muốn sớm hiện thực hóa tầm nhìn đó, Việt Nam nên làm gì, thưa Giáo sư?
Giáo sư Hà Vĩnh Thọ: Tôi có một số khuyến nghị. Trước hết, về quan hệ đối tác công – tư, cần thúc đẩy sự hợp tác giữa chính phủ, khu vực tư nhân và người dân để thực hiện các dự án lấy cảm hứng từ GNH. Những quan hệ đối tác này có thể tận dụng thế mạnh của từng lĩnh vực để thúc đẩy phát triển bền vững, giáo dục, doanh nghiệp hạnh phúc và các sáng kiến văn hóa.
Cùng với đó, Việt Nam cần hình dung về những ngôi làng hạnh phúc thế kỷ 21. Điều này liên quan đến việc tạo ra những cộng đồng bền vững, nơi công nghệ hiện đại và các giá trị truyền thống cùng tồn tại hài hòa, nâng cao phúc lợi cho mọi cư dân; Trao quyền để cộng đồng địa phương đóng vai trò tích cực trong việc thiết kế và thực hiện các sáng kiến về hạnh phúc; Tích hợp các hoạt động về năng lượng tái tạo, giáo dục kỹ thuật số và chăm sóc sức khỏe với các hoạt động văn hóa địa phương và quản lý môi trường, thúc đẩy lối sống cân bằng và trọn vẹn.
Một yếu tố cần quan tâm nữa là học tập và thích ứng liên tục. Việt Nam nên thành lập một trung tâm nghiên cứu và học tập quốc gia chuyên nghiên cứu về GNH cùng các lĩnh vực liên quan. Trung tâm này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc áp dụng liên tục các nguyên tắc GNH cho phù hợp với bối cảnh xã hội, kinh tế và môi trường đang thay đổi của Việt Nam.
Ngoài ra, cũng cần tham gia các cuộc trao đổi và hợp tác quốc tế để học hỏi cũng như đóng góp vào diễn ngôn toàn cầu về hạnh phúc và thịnh vượng. Điều này có thể giúp Việt Nam vừa chia sẻ những thành công của mình vừa học hỏi kinh nghiệm của các quốc gia khác.
Bằng cách chấp nhận những khuyến nghị như tôi vừa nêu và không ngừng nỗ lực hướng tới cách tiếp cận phát triển toàn diện, Việt Nam có thể trở thành biểu tượng của hạnh phúc và thịnh vượng, không chỉ ở Đông Nam Á mà trên toàn thế giới.
Trân trọng cảm ơn Giáo sư!