Việt Nam còn tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn hồ đập
Theo báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường, cả nước hiện nay còn hơn 1.100 hồ chứa nước xuống cấp, thiếu khả năng xả lũ, chưa có nguồn vốn để đầu tư, sửa chữa và nâng cấp.
Bộ Tài nguyên và Môi trường vừa có báo cáo gửi các đại biểu Quốc hội về một số nội dung liên quan đến nhóm vấn đề chất vấn tại Kỳ họp thứ 7, Quốc hội khóa XV.
3 nhóm vấn đề chính trong báo cáo bao gồm: Quản lý, khai thác, bảo vệ tài nguyên biển quốc gia; Tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về an ninh nguồn nước; giải pháp phòng, chống tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu, suy giảm, ô nhiễm nguồn nước; Giải pháp nghiên cứu, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên khoáng sản làm vật liệu xây dựng và tài nguyên, khoáng sản quý hiếm.
Còn tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn hồ đập
Báo cáo của Bộ Tài nguyên và Môi trường nêu: Hiện nay, trên cả nước có khoảng 40.200 công trình khai thác, sử dụng nước (29.860 công trình khai thác nước mặt: 6.750 hồ thủy lợi, gần 600 hồ thủy điện, 3.659 đập dâng, còn lại là các công trình cống, trạm bơm và các công trình khác; khoảng 10.346 công trình khai thác nước dưới đất).
Tuy nhiên, đối với các hồ đập thủy lợi nhỏ, phần lớn do các xã, hợp tác xã, nông trường đầu tư xây dựng từ những năm 1970 đến 1980, trong điều kiện thiếu kinh phí, trình độ kỹ thuật hạn chế nên chất lượng thiết kế, thi công chưa phù hợp, không có hồ sơ thiết kế, thiếu kinh phí bảo trì nên bị hư hỏng, xuống cấp, suy giảm năng lực, hiệu quả phục vụ, tiềm ẩn nguy cơ mất an toàn.
Cụ thể, hiện nay, cả nước còn 1.104 hồ chứa bị xuống cấp, thiếu khả năng xả lũ, chưa có nguồn vốn để đầu tư sửa chữa nâng cấp (157 lớn, 264 vừa và 683 nhỏ). Các hạng mục hư hỏng xuống cấp nặng thường xảy ra tại các hồ chứa thủy lợi, gồm đập đất bị thấm lớn qua thân, nền, vai đập; sạt, trượt mái đập (do sóng, do thấm); có tổ mối trong thân đập; thân cống bị hư hỏng, mục ruỗng; mang cống bị thấm, hư hỏng tiêu năng sau cống, thấm mang; lớp gia cố tràn xả lũ bị bong tróc, nứt vỡ, thấm luồn dưới lớp gia cố, thiếu khả năng xả lũ.
Về khả năng chống lũ, hầu hết các hồ chứa lớn đã được sửa chữa nâng cấp theo Quy chuẩn 04-05:2012/BNNPTNT, tuy nhiên, vẫn còn 65 hồ thiết kế, xây dựng theo tiêu chuẩn cũ (trước năm 2002), cần kiểm tra khả năng tháo lũ.
Rủi ro mất an toàn đập, hồ chứa nước cũng gia tăng do mưa lũ diễn biến cực đoan dưới tác động của biến đổi khí hậu, sự suy giảm rừng đầu nguồn, thảm phủ thực vật trên lưu vực hồ chứa đang có chiều hướng gia tăng.
“Từ năm 2010 đến nay, cả nước đã xảy ra 75 sự cố vỡ đập, hồ chứa thủy lợi và 14 sự cố mất an toàn đập, hồ chứa thủy điện. Nguyên nhân sự cố do ảnh hưởng của mưa, lũ dòng chảy về hồ vượt tần suất thiết kế, công trình đầu mối bị hư hỏng, xuống cấp; năng lực của đơn vị quản lý, khai thác chưa đáp ứng yêu cầu, đặc biệt nhiều đơn vị quản lý, khai thác đập, hồ chứa thủy điện không đủ năng lực; công tác kiểm định an toàn đập hầu hết chưa được thực hiện, kiểm tra đập hồ chứa nước bằng trực quan nên chưa phát hiện được ẩn họa trong đập”, báo cáo nêu nguy cơ.
Về phương hướng khắc phục, Bộ Tài nguyên và Môi trường cho biết đã trình Thủ tướng ban hành, sửa đổi 11 quy trình vận hành liên hồ chứa, bảo đảm điều hòa, phân bổ nguồn nước cũng như sử dụng tổng hợp nguồn nước và phòng chống tác hại hạn hán, thiếu nước.
Bộ cũng xây dựng hệ thống thông tin, dữ liệu vận hành của 134 hồ chứa, đập dâng lớn, quan trọng trên 11 lưu vực, phục vụ việc giám sát, vận hành liên hồ, đáp ứng các yêu cầu quản lý, điều hòa phân phối nguồn nước trên 11 lưu vực.
Phối hợp các cơ quan cập nhật và xây dựng kịch bản Biến đổi khí hậu gắn với nhu cầu chi tiết của ngành, địa phương, hạn chế tác động của biến đổi khí hậu. Các cơ quan đã xây dựng bản đồ rủi ro lũ và ngập lụt cho 24 lưu vực sông trên toàn quốc phục vụ quy hoạch và phòng chống thiên tai.
Khi hạ tầng kỹ thuật bảo đảm, Bộ Tài nguyên và Môi trường hướng đến vận hành an toàn hồ chứa theo thời gian thực, tối ưu hóa việc sử dụng nguồn nước và đảm bảo 100% hồ chứa thủy điện lớn được kiểm soát, giám sát trực tuyến.
Hiệu quả sử dụng nước ở Việt Nam chỉ bằng 1/8 trung bình thế giới
Liên quan đến tài nguyên nước, Bộ Tài nguyên và Môi trường thông tin: Hiện nay, hiệu quả sử dụng nước ở Việt nam chỉ bằng 1/8 trung bình thế giới. Hiệu quả sử dụng nước được đo bằng tỷ lệ giá trị USD tạo ra với khối lượng nước được sử dụng, dựa trên hoạt động kinh tế, nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ.
Nguyên nhân của tình trạng trên là do Việt Nam chưa có hệ thống công cụ ra quyết định phục vụ xây dựng kịch bản nguồn nước, điều hòa, phân phối tài nguyên nước thống nhất trên lưu vực sông. Việc này dẫn đến điều phối khai thác, sử dụng nước của các ngành, địa phương chưa tối ưu hóa lợi ích kinh tế xã hội. Nguồn nước bị lãng phí, chưa đáp ứng nhu cầu về an ninh nước sạch, lương thực và năng lượng. Tình trạng mâu thuẫn trong khai thác, sử dụng nước gia tăng do lợi ích kinh tế giữa thủy điện, thủy lợi và công nghiệp, sinh hoạt và sản xuất.
Bộ Tài nguyên và Môi trường nhận định, đầu tư ngành nước đang thiếu so với nhu cầu; bố trí nguồn lực chưa tương xứng và mất cân đối. Kinh phí điều tra cơ bản, kiểm kê, đánh giá tài nguyên nước, đầu tư xây dựng công trình hồ chứa, tích trữ nước không đầy đủ. Trong khi đó, nhiều dòng sông, đoạn sông như Hồng, Vu Gia - Thu Bồn, Ba và hạ lưu hồ chứa thủy điện, thủy lợi đều có tình trạng suy giảm, cạn kiệt dòng chảy.
Hiện nay, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã xây dựng hệ thống giám sát khai thác, sử dụng nước trực tuyến. Công nghệ này có thể tự động, giám sát việc xả dòng chảy tối thiểu trên lưu vực và giám sát các chỉ tiêu thực hiện quy hoạch tài nguyên nước.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đã phối hợp với Bộ Khoa học và Công nghệ nghiên cứu các đề tài cấp quốc gia về bảo đảm an ninh nguồn nước và an toàn đập, hồ chứa nước; ứng phó với biến đổi khí hậu phục vụ phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long.
Bộ Tài nguyên và Môi trường đang triển khai công trình điều tiết mặn, ngọt, dâng nước, trữ nước trên hệ thống sông lớn. Công trình bổ sung nước ngọt cho vùng ven biển phục vụ dân sinh, nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp đang được thực hiện. Thời gian tới, Bộ sẽ tự động hóa công tác quản lý hạ tầng ngành nước, nhất là hệ thống giám sát, cảnh báo, dự báo nguồn nước, thiên tai.
Cũng liên quan đến tài nguyên nước, báo cáo thông tin: Bình quân trong vòng 50 năm qua, nhu cầu nước đã tăng gấp 3 lần do sự gia tăng dân số, phát triển nông nghiệp, công nghiệp, đô thị hóa; dự báo đến năm 2030 nhu cầu sử dụng nước cho các ngành khoảng 122,47 tỷ m3/năm; đến năm 2050 khoảng 131,7 tỷ m3/năm.
Một vấn đề đáng lo ngại khác là tình trạng gia tăng ô nhiễm nguồn nước do “sức ép” của quá trình phát triển kinh tế cũng như đô thị hóa tăng nhanh. Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, đã đến lúc phải xem đây là một trong những vấn đề cần được ưu tiên triển khai trong những năm tới nhằm khôi phục nguồn nước, tạo dòng chảy, cải tạo cảnh quan môi trường sinh thái và các giá trị của nguồn nước đã mất đi do quá trình phát triển kinh tế, đô thị hóa, các hoạt động sản xuất công nghiệp, nông nghiệp gia tăng.
“Trong thời gian tới, Bộ Tài nguyên và Môi trường sẽ xây dựng trình Thủ tướng Chính phủ kế hoạch, chương trình, đề án phục hồi nguồn nước bị suy thoái, cạn kiệt, ô nhiễm; ưu tiên phục hồi các dòng sông chết nhằm khôi phục nguồn nước, tạo dòng chảy, cải tạo cảnh quan môi trường sinh thái, trong đó kèm theo chương trình, đề án, dự án ưu tiên làm sống lại các dòng sông”, văn bản nêu.
Tài nguyên biển cũng đang suy giảm
Báo cáo cho biết, hiện nhiều hệ sinh thái biển tại Việt Nam đang suy giảm nhanh do sự khai thác quá mức và tác động tiêu cực của các hoạt động kinh tế-xã hội. Bên cạnh nguồn lợi thủy sản, hệ sinh thái rạn san hô, hệ sinh thái cỏ biển… cũng có cùng số phận.
Báo cáo dẫn chứng: Trong 15 năm trở lại đây, khoảng 15-20% diện tích các rạn san hô bị mất, chủ yếu ở các vùng có dân cư sinh sống như vịnh Hạ Long, các tỉnh Trung Bộ và một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa. Trong khi đó, các thảm cỏ ven bờ Nam Trung Bộ đang bị suy thoái với tốc độ trung bình 6-7%/năm (cấp độ II-III) như Lý Sơn, vịnh Nha Trang, khoảng 3-5%/năm (cấp I-II) như Phú Quý; ven bờ Nam Bộ khoảng 3%/năm như Phú Quốc, Côn Đảo.
Bên cạnh đó, sự gia tăng chất thải ra cửa sông, ven biển, tình trạng ô nhiễm trên diện rộng tại các vùng kể trên cũng làm ảnh hưởng lớn đến tài nguyên nước, sinh vật, các ngành kinh tế gắn với biển.
Bộ Tài nguyên và Môi trường cho rằng, nếu không có các giải pháp hiệu quả, các hệ sinh thái biển, sinh cảnh quan trọng, nguồn lợi thủy sản sẽ tiếp tục bị suy thoái. Ngoài ra, khả năng thiếu nước ngọt cục bộ sẽ tiếp tục xảy ra tại một số vùng ven biển và hải đảo, nhất là ven biển miền Trung và đồng bằng sông Cửu Long; ô nhiễm môi trường biển, đặc biệt là ven biển ngày càng nghiêm trọng.
Theo kế hoạch, ngày 4/6 tới đây, phiên họp chất vấn và trả lời chất vấn các vấn đề thuộc lĩnh vực Tài nguyên và Môi trường sẽ chính thức diễn ra. Nhóm vấn đề bao gồm các nội dung: Việc quản lý, khai thác, bảo vệ tài nguyên biển quốc gia; Tình hình thực hiện chính sách, pháp luật về an ninh nguồn nước; giải pháp phòng, chống tình trạng hạn hán, xâm nhập mặn, thiếu, suy giảm, ô nhiễm nguồn nước; Giải pháp nghiên cứu, thăm dò, khai thác, sử dụng nguồn tài nguyên khoáng sản làm vật liệu xây dựng và tài nguyên, khoáng sản quý hiếm.
Người trả lời chất vấn là Bộ trưởng Tài nguyên và Môi trường Đặng Quốc Khánh. Phó Thủ tướng Trần Hồng Hà, Bộ trưởng các Bộ: Kế hoạch và Đầu tư, Tài chính, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Xây dựng, Giao thông vận tải cùng tham gia trả lời chất vấn, giải trình về những vấn đề có liên quan.
Nguồn Nhân Dân: https://nhandan.vn/viet-nam-con-tiem-an-nguy-co-mat-an-toan-ho-dap-post812360.html