Việt Nam và kỳ tích giảm nghèo bền vững, tiến tới kỷ nguyên vươn mình
Thành tựu giảm nghèo trong hành trình suốt 80 năm qua (2/9/1945-2/9/2025) không những góp phần ổn định kinh tế – xã hội, nâng cao sức cạnh tranh quốc gia mà còn là nguồn cảm hứng cho nhiều quốc gia đang phát triển.

Việt Nam và kỳ tích giảm nghèo bền vững, tiến tới kỷ nguyên vươn mình.
Với những kết quả đã đạt được, Việt Nam được cộng đồng quốc tế đánh giá là điểm sáng trên thế giới trong cuộc chiến chống đói nghèo và là một trong những quốc gia tiên phong trong tiếp cận và áp dụng phương pháp giảm nghèo đa chiều để thực hiện mục tiêu an sinh xã hội toàn dân và giảm nghèo bền vững.
Ngay sau khi khai sinh ra nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định nhiệm vụ cấp bách của chính quyền cách mạng là “chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm”. Đói nghèo, theo Người, không chỉ là hệ quả kinh tế mà còn là sự kìm hãm tự do và sức mạnh dân tộc. Vì thế, xóa đói giảm nghèo được xác định là mục tiêu cách mạng, gắn liền với giải phóng sức lao động, nâng cao đời sống và thực hiện công bằng xã hội.
Người khẳng định: “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi”, đó cũng chính là tư tưởng xuyên suốt của Đảng, Nhà nước ta thể hiện trong các chính sách giảm nghèo bền vững của Việt Nam.
HÀNH TRÌNH GIẢM NGHÈO ĐỂ KHÔNG AI BỊ BỎ LẠI PHÍA SAU
Việt Nam từ một nước nghèo nàn, kiệt quệ sau chiến tranh đã được Ngân hàng Thế giới (WB) và Chương trình Phát triển của Liên hợp quốc (UNDP) đánh giá là “một trong những quốc gia giảm nghèo nhanh nhất và ấn tượng nhất trong lịch sử hiện đại”.
Cách đây 80 năm, ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khi đó, hơn 90% dân số Việt Nam mù chữ, nạn đói hoành hành. Vì vậy, ngay từ đầu, Người đã xác định mục tiêu “làm cho dân có ăn, có mặc, có chỗ ở, được học hành” là ưu tiên chiến lược.
Tuy nhiên, trải qua hàng chục năm kháng chiến bảo vệ, xây dựng đất nước, đến năm 1993 Việt Nam mới công bố tiêu chí nghèo quốc gia đơn chiều quy theo lương thực, hộ nghèo là hộ có thu nhập bình quân đầu người dưới 20 kg gạo/tháng đối với thành thị, dưới 15kg gạo/tháng đối với khu vực nông thôn; hộ đói là hộ có bình quân thu nhập đầu dưới 13kg gạo/tháng đối với thành thị, dưới 8kg gạo/tháng đối với khu vực nông thôn.

Gia đình bà Dậu ở xã Hóa Quỳ (tỉnh Thanh Hóa) thoát nghèo từ chăn nuôi bò và trồng cây keo.
Với chuẩn nghèo này, theo báo cáo của Ủy ban kinh tế và ngân sách của Quốc hội, trình bày tại kỳ họp thứ 4, Quốc hội khóa IX, ngày 7/12/1993, thì tỷ lệ hộ nghèo của nước ta là 58,1%.
Sau đó 7 năm, đến năm 2010, tại phiên họp khóa 49 của Ủy ban Phát triển xã hội Liên hợp quốc với chủ đề “Xóa nghèo, mối quan hệ qua lại giữa hòa nhập xã hội với việc làm đầy đủ và tốt đẹp cho mọi người”, Đại sứ Bùi Thế Giang, Phó trưởng Phái đoàn Đại diện thường trực Việt Nam tại Liên hợp quốc, thông báo Việt Nam đã về đích sớm trong việc thực hiện mục tiêu đầu tiên về xóa nghèo trong 8 Mục tiêu Phát triển Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc với việc giảm tỷ lệ người nghèo trong dân cư từ 58,1% năm 1993 xuống còn 9,45%.
Các chương trình giảm nghèo của Việt Nam từ nhiều năm qua như “một cuộc cách mạng” với nhiều thành tựu nổi bật được quốc tế ghi nhận. Việt Nam là quốc gia duy nhất ở châu Á thực hiện chương trình giảm nghèo đa chiều, bao trùm, bền vững. Trong quá trình thực hiện giảm nghèo có một số giai đoạn mang dấu ấn nổi bật.
Giai đoạn từ năm 1993-2000: được đánh dấu là bước ngoặt quan trọng trong chính sách xóa đói giảm nghèo của Việt Nam, đây là lần đầu tiên ban hành chuẩn nghèo quốc gia và áp dụng các chính sách hỗ trợ mục tiêu giảm nghèo. Nhiều chính sách xóa đói, giảm nghèo ra đời trong giai đoạn này, đặc biệt là Chương trình phát triển kinh tế – xã hội các xã đặc biệt khó khăn vùng dân tộc thiểu số và miền núi và vùng sâu, vùng xa theo Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg, ngày 31/7/1998 (Chương trình 135).
Giai đoạn 2001 – 2010: Việt Nam không chỉ giảm nghèo về thu nhập mà bắt đầu mở rộng tiếp cận các tiêu chí về giáo dục, y tế, nước sạch theo hướng đa chiều. Chương trình 134 ra đời theo quyết định số 134/2004/QĐ-TTg (hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn) cùng Chương trình 135 là hai Chương trình cốt lõi của công cuộc xóa đói giảm nghèo, giúp hàng triệu hộ dân cải thiện sinh kế. Đây cũng là giai đoạnViệt Nam đạt được nhiều Mục tiêu Thiên niên kỷ (MDGs) của Liên hợp quốc trước thời hạn.
Giai đoạn 2011 – 2020: Việt Nam chính thức áp dụng chuẩn nghèo đa chiều, coi nghèo không chỉ là thiếu gạo, mà còn thiếu cơ hội tiếp cận dịch vụ cơ bản. Tỷ lệ nghèo giảm từ 14,2% (năm 2010) xuống còn 4,8% (năm 2020). Nhiều địa phương miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số bắt đầu chuyển từ “trợ cấp” sang “trao cơ hội” thông qua hỗ trợ sinh kế, đào tạo nghề, tín dụng ưu đãi.
Giai đoạn 2021 – 2025: đây là giai đoạn then chốt, khi đất nước đối mặt với dịch Covid-19, thiên tai và biến đổi khí hậu, nhưng vẫn duy trì kết quả giảm nghèo bền vững. Tính đến tháng 6/2025 tỷ lệ hộ nghèo toàn quốc đã giảm xuống còn khoảng 1,93%. Đối với các huyện nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm mạnh từ 45% xuống còn 24,86%, còn tại khu vực đồng bào dân tộc thiểu số, tỷ lệ này đã hạ từ 25% xuống chỉ còn 12,55%.
Điểm nổi bật của giai đoạn này là chuyển từ “cho con cá” sang “cho cần câu”. Nhà nước không chỉ trợ cấp mà còn khuyến khích khởi nghiệp nông thôn, phát triển Chương trình “Mỗi xã một sản phẩm” (OCOP - chương trình phát triển kinh tế khu vực nông thôn theo hướng phát huy nội lực và gia tăng giá trị sản phẩm), mở rộng đào tạo nghề, tạo việc làm xanh. Chính sách giảm nghèo gắn liền với đổi mới mô hình tăng trưởng, đảm bảo không ai bị bỏ lại phía sau.
GIẢM NGHÈO: NỀN TẢNG CHO PHÁT TRIỂN BAO TRÙM VÀ BỀN VỮNG
Thành công giảm nghèo của Việt Nam không chỉ dừng ở tỷ lệ giảm nghèo mà còn tạo nền tảng cho phát triển bền vững, thể hiện ở bốn điểm.
Thứ nhất, đời sống người dân được nâng cao. Thu nhập bình quân đầu người năm 1993 mới đạt 185 USD thì đến năm 2025 sẽ đạt khoảng 4.900 USD; thu nhập của hộ nghèo đạt khoảng 2,5 triệu đồng/tháng, gấp hơn 10 lần so với thập niên 1990.
Đáng lưu ý, chuẩn nghèo đa chiều giai đoạn 2021-2025 đã quy định cao hơn, như: thu nhập nông thôn dưới 1.500.000 đồng/người/tháng, thành thị 2.000.000 đồng/người/tháng, kết hợp thiếu hụt ít nhất 3/10 chỉ số (giáo dục, y tế, việc làm...) mới nằm trong diện nghèo. Sự chuyển đổi tiêu chí thể hiện tư duy nhân văn của Đảng, coi nghèo còn là thiếu cơ hội phát triển toàn diện.

Gia đình ông Thành ở xã Bình Yên (tỉnh Thái Nguyên) là hộ nghèo được hỗ trợ mua trâu sinh sản.
Thứ hai, chất lượng nguồn nhân lực cải thiện đáng kể nhờ thu hút đầu tư vào các “vùng trũng” kinh tế. Nâng tỷ lệ trẻ em nghèo được đến trường cao gần như phổ cập; tỷ lệ hộ nghèo tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 95%. Điều này giúp Việt Nam thoát khỏi “bẫy nghèo truyền kiếp” vốn phổ biến ở nhiều quốc gia đang phát triển.
Thứ ba, giảm nghèo góp phần củng cố niềm tin chính trị - xã hội, mở rộng tầng lớp trung lưu. Mỗi bước tiến trong giảm nghèo là một minh chứng sinh động cho tính ưu việt của đường lối phát triển “lấy dân làm gốc”của Đảng, của Bác Hồ. Nhiều tổ chức quốc tế đã coi Việt Nam là “tấm gương về chính sách nhân văn và hiệu quả trong phát triển bao trùm”.
Thứ tư, sự gắn kết giữa Chương trình giảm nghèo giai đoạn 2021-2025 với các mục tiêu ESG (môi trường – xã hội – quản trị) như chương trình trồng rừng, phát triển nông nghiệp xanh, năng lượng tái tạo ở các vùng nghèo không chỉ tạo việc làm mới mà còn nâng cao năng lực chống chịu của cộng đồng trước biến đổi khí hậu.
Gần 45.000 tỷ đồng từ ngân sách trung ương và thêm các nguồn ngân sách khác dành cho giai đoạn này đã tạo ra hơn 10.000 mô hình sinh kế và việc làm cho gần 125.000 lao động thuộc hộ nghèo và cận nghèo. Điều này không những thể hiện tính nhân văn trong chính sách xã hội mà còn có tác tác động lan tỏa đến tăng trưởng kinh tế.
Với những thành quả nêu trên, để đạt được mục tiêu đến năm 2030 không còn hộ nghèo vẫn là một thách thức rất lớn. Hiện tỷ lệ nghèo cao ở vùng sâu, vùng xa vẫn còn khá lớn, đó vẫn là những “điểm nóng” nghèo đa chiều. Nguy cơ tái nghèo và phát sinh nghèo mới vẫn hiện hữu do tác động của biến đổi khí hậu, thiên tai, già hóa dân số, và xu hướng đô thị hóa nhanh gây áp lực mới cho hệ thống an sinh. Khoảng cách giàu – nghèo giữa các vùng, giữa đô thị và nông thôn còn lớn.
Do đó, trong kỷ nguyên mới, chúng ta cần hoàn thiện chính sách giảm nghèo đa chiều, phù hợp từng nhóm đối tượng, từng vùng. Tăng cường đầu tư vào vùng sâu, vùng xa gắn với phát triển hạ tầng, giao thông, giáo dục, y tế. Đẩy mạnh đào tạo nghề, chuyển đổi sinh kế, đặc biệt là cho lao động nghèo, lao động nông thôn.
Đặc biệt, ứng dụng khoa học, công nghệ và chuyển đổi số để mở rộng cơ hội việc làm và tiếp cận dịch vụ công. Tích hợp giảm nghèo với ứng phó biến đổi khí hậu, xây dựng mô hình sinh kế xanh, bền vững. Tăng cường hợp tác quốc tế để huy động nguồn lực tài chính, kỹ thuật. Đồng thời, nâng cao năng lực cán bộ cơ sở, khuyến khích sáng kiến giảm nghèo từ cộng đồng...
Nội dung đầy đủ bài viết được đăng tải trên Tạp chí Kinh tế Việt Nam số 35+36-2025 phát hành ngày 01/09/2025. Kính mời Quý độc giả tìm đọc tại đây:
Link: https://premium.vneconomy.vn/dat-mua/an-pham/tap-chi-kinh-te-viet-nam-so-33.html
