'Vốn ngân hàng dành cho ĐBSCL không thiếu'
Đây là khẳng định Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú khẳng định tại hội thảo 'Thúc đẩy tín dụng cho ngành hàng nông sản chủ lực, đưa ĐBSCL phát triển nhanh, bền vững' do Báo Đại biểu Nhân dân tổ chức sáng 18.11 tại Cần Thơ.
Đồng chủ trì hội thảo, Phó Thống đốc Thường trực NHNN Đào Minh Tú đã có bài phát biểu sau phiên tham luận "Tín dụng cho nông sản chủ lực ĐBSCL - Từ chính sách đến thực thi" và phiên thảo luận “Tăng tốc tín dụng cho nông sản chủ lực của ĐBSCL" của hội thảo:
“Trước hết, tôi đánh giá cao Báo Đại biểu Nhân dân đã tổ chức hội thảo này với sự quan tâm lớn của các ĐBQH và lãnh đạo các địa phương ở khu vực ĐBSCL.
ĐBSCL có nhiều lợi thế, nhiều tiềm năng và sự quan tâm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước đối với ĐBSCL, nhất là trong những năm vừa qua, rất lớn. Bám vào những chủ trương của Đảng và Nhà nước, ngành ngân hàng đã có rất nhiều cơ chế, chính sách riêng cho khu vực này.
Trước hết, phải khẳng định nguồn vốn ngân hàng dành cho ĐBSCL từ trước đến nay không bao giờ thiếu. Trên thực tế, kết quả vốn huy động (tính đến tháng 9.2024 – PV) trên địa bàn các tỉnh, thành phố vùng ĐBSCL đạt khoảng 840 nghìn tỷ đồng, nhưng cho vay gần 1,2 triệu tỷ đồng. Số thiếu khoảng 350 nghìn tỷ đồng phải đưa từ trung ương về, huy động tại chỗ là không đủ.
Về thời hạn vay vốn, vốn trung và dài hạn đúng là vấn đề khó, vì người gửi tiền tiết kiệm thường chỉ gửi 1 năm, nếu ngân hàng cho doanh nghiệp vay với thời hạn 10 – 15 năm thì đây là cả vấn đề.
Bên cạnh đó, dù lãi suất cho vay chỉ 3% hay 5% thì vẫn khó khăn với doanh nghiệp do tỷ lệ đi vay quá nhiều, vốn tự có không có mấy. Trong gần 1,2 triệu tỷ đồng dư nợ của ĐBSCL, vốn tự có chỉ chiếm 18 – 20%; còn lại là vốn vay. Như vậy rõ ràng là khó cho doanh nghiệp. Nếu chỉ vay 30% như thông lệ các nước, thì doanh nghiệp không khó khăn.
Thứ hai, vốn cho lĩnh vực lúa gạo, thủy sản, trái cây – 3 thế mạnh của ĐBSCL - cũng rất cao, luôn chiếm tỷ trọng cao hơn trong cả nước.
Thứ ba, về cơ chế chính sách ưu đãi, có 12 văn bản đang hiệu lực ở khu vực này với ưu đãi về vốn, thời hạn, lãi suất, kể cả điều kiện tín dụng. Ví dụ trong Nghị định 55 của Chính phủ, sau này sửa đổi ở Nghị định 116, có rất nhiều nội dung ưu đãi: nâng mức vay không cần tài sản thế chấp, lãi suất cho vay đối tượng ưu tiên chỉ 4%...
Ở đây, nhìn từ góc độ vĩ mô tôi thấy có mấy vấn đề.
Đầu tiên là rủi ro trong nông nghiệp, nông thôn. Ví dụ trận bão số 3 vừa qua khiến nhiều nông dân mất hết. Chính sách xử lý bằng cách nào? Chỉ có giãn hoãn thôi chứ người dân lấy đâu trả. Xóa nợ thì không thể vì luật pháp không cho phép. Khoanh nợ thì phụ thuộc chính quyền địa phương – nhưng chưa địa phương nào công bố thiên tai trên diện rộng và làm chính sách khoanh nợ cho doanh nghiệp cả, vì khoanh nợ lại ảnh hưởng đến ngân sách địa phương. Cuối cùng ngân hàng lại phải gánh hết chuyện giãn hoãn. Chắc trong tuần tới, chúng tôi sẽ có thông tư về giãn, hoãn nợ sau đợt bão lũ này.
Giống như ĐBSCL trước đây, khi lúa gạo bị sâu bệnh và hạn hán, ngập mặt cũng phải xử lý theo cách đó. Nói tóm lại, rất nhiều rủi ro ngành ngân hàng cuối cùng phải gánh chịu, trích lập dự phòng rủi ro.
Tiếp đến là thiếu nguồn vốn tại chỗ và nguồn lực của doanh nghiệp, nhất là hợp tác xã và doanh nghiệp nhỏ. Ví dụ, Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, theo Đề án có 4 nguồn lực. Trong đó, ngân sách hỗ trợ giao thông, thủy lợi, cải tạo đất đai; vốn vay của Ngân hàng Thế giới chưa xong thủ tục; vốn đầu tư trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài – tôi tin là chưa có; cuối cùng là vốn ngân hàng – chúng tôi đã hướng dẫn các ngân hàng thực hiện. Nói vậy để thấy, nguồn vốn cho ĐBSCL vẫn chủ yếu dựa vào tín dụng nên rất mong có sự chia sẻ với ngành ngân hàng.
Cuối cùng, liên kết chuỗi giá trị trong sản xuất nông nghiệp vẫn còn hạn chế. Trong việc liên kết chuỗi, cũng như với Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao, phải có bàn tay Nhà nước mới thành công được.
Thời gian tới, quan điểm chỉ đạo của NHNN là, về nguồn vốn, với cả nước có thể cần kiểm soát để kiểm soát lạm phát và bảo đảm an toàn hệ thống nhưng với nông nghiệp, nông thôn và đặc biệt ĐBSCL là không thiếu vốn. Nếu ngân hàng thương mại thiếu vốn thì NHNN sẽ có biện pháp tái cấp vốn hoặc có hình thức cụ thể để hỗ trợ nguồn lực.
Doanh nghiệp mong muốn tăng cho vay trung và dài hạn, lẽ ra chúng tôi phải giảm tỷ lệ huy động ngắn hạn cho vay trung và dài hạn xuống 30% nhưng vì nền kinh tế, vì khó khăn nên giờ chúng tôi vẫn phải hoãn và chưa đạt được. Riêng ĐBSCL, như với Đề án 1 triệu ha lúa chất lượng cao thì đúng là phải quan tâm đến vốn trung và dài hạn. NHNN đã chỉ đạo Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (Agribank) và các ngân hàng yêu cầu chung tay, đồng tài trợ để chia sẻ rủi ro. Tới đây, sẽ chỉ đạo thí điểm ở Công ty Trung An.
Về lãi suất, hiện lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn đã có chính sách rồi, với Đề án 1 triệu ha thì chính sách đã rõ hơn nữa.
Về Quỹ Tín dụng nhân dân, quan điểm của NHNN là sẽ củng cố hệ thống này nhưng không mở rộng quy mô và số lượng.
Đồng thời, thời gian tới, chúng tôi sẽ tiếp tục chỉ đạo các tổ chức tín dụng rà soát, đơn giản hóa thủ tục, hồ sơ vay vốn, tài sản bảo đảm, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp và người dân tiếp cận vốn tín dụng ngân hàng; phát triển đa dạng sản phẩm tín dụng ngân hàng phù hợp đặc thù hoạt động của doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh lúa gạo, thủy sản, rau quả…".