Vụ án Ethanol ở Phú Thọ: Chủ mới biệt thự Tam Đảo bất ngờ bổ sung thêm nội dung kháng cáo, đề nghị trả lại đất
Theo kế hoạch, vụ án này sẽ được TAND cấp cao tại Hà Nội đưa ra xét xử phúc thẩm vào ngày 27/9 tới, để xem xét kháng cáo của 6 bị cáo và Công ty TNHH đầu tư Mai Phương (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án).
Các bị cáo tại phiên tòa sơ thẩm
Theo đó, liên quan đến vụ án “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Dự án Nhà máy nhiên liệu sinh học (Ethanol) Phú Thọ, Công ty TNHH đầu tư Mai Phương (Công ty Mai Phương) vừa gửi đơn bổ sung yêu cầu kháng cáo và kiến nghị tới TAND cấp cao tại Hà Nội, đề nghị Tòa cấp phúc thẩm tuyên trả lại 3.400 m2 đất tại Tam Đảo (Vĩnh Phúc) cho Công ty Mai Phương.
Khu đất 3.400 m2 tại Tam Đảo (Vĩnh Phúc) là khu biệt thự tại Tam Đảo do Trịnh Xuân Thanh (nguyên Chủ tịch HĐQT, TGĐ Tổng Công ty CP Xây lắp Dầu khí Việt Nam - PVC) bàn bạc với Đỗ Văn Hồng (Chủ tịch HĐQT, kiêm TGĐ Công ty CP Đầu tư và xây lắp Dầu khí Kinh Bắc – PVC Kinh Bắc) mua bằng tiền tạm ứng trái quy định của PVC (năm 2010), gây thiệt hại cho PVC hơn 13 tỷ đồng.
Sau đó, năm 2011, Thanh chỉ đạo Hồng bán lại cho Công ty Mai Phương (khi đó do ông Trịnh Xuân Giới – bố Thanh đứng tên chủ sở hữu) với giá 23,8 tỷ đồng (nhưng Thanh chỉ thanh toán 20,8 tỷ đồng, còn 3 tỷ đồng không trả). Năm 2015, ông Giới bán lại Công ty Mai Phương cho bà Trần Dương Nga (vợ Thanh).
Năm 2016, bà Nga làm thủ tục chuyển nhượng Công ty Mai Phương cho ông Kiều Đào Lâm (ở Vĩnh Phúc) với giá 45 tỷ đồng, trong đó có lô đất 3.400 m2 đất tại Tam Đảo nói trên (gọi tắt là lô đất).
Tại bản án sơ thẩm tuyên ngày 15/3/2021, TAND TP Hà Nội đã tuyên trả lại cho PVC quyền sử dụng 3.400 m2 đất tại Tam Đảo nói trên; Kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền tiến hành các thủ tục xác nhận quyền sử dụng đất cho PVC. Đồng thời, tiếp tục thu giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng mảnh đất này (đứng tên chủ sở hữu là Công ty Mai Phương) hiện lưu trong hồ sơ vụ án.
Sau khi bản án sơ thẩm tuyên, Công ty Mai Phương đã làm đơn kháng cáo, không đồng ý với nội dung đã tuyên nêu trên và cho rằng Tòa án cấp sơ thẩm đã không xem xét đến quyền, lợi ích hợp pháp của Công ty Mai Phương, không đánh giá chứng cứ đúng thực tế khách quan, ra quyết định không đúng pháp luật làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền lợi hợp pháp của Công ty Mai Phương.
Trong đơn bổ sung yêu cầu kháng cáo và kiến nghị tới TAND cấp cao tại Hà Nội gửi ngày 24/9, Công ty Mai Phương tiếp tục cho rằng quyết định của Tòa cấp sơ thẩm về phần dân sự liên quan đến Công ty Mai Phương không đảm bảo căn cứ pháp luật, không khách quan, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của công ty.
Theo đơn của Công ty Mai Phương đã phân tích, PVC tham gia tố tụng trong vụ án này với tư cách là nguyên đơn dân sự, có yêu cầu bồi thường thiệt hại. Do vậy, khi giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự, Tòa án phải tuân thủ các nguyên tắc quy định tại Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và Bộ luật Dân sự năm 2015.
Trong vụ án này, tại phiên tòa sơ thẩm cũng như trong toàn bộ quá trình giải quyết vụ án, đại diện của PVC không có yêu cầu nào thể hiện rằng PVC yêu cầu được đứng tên chủ sở hữu, sử dụng đối với lô đất 3.400 m2 tại Tam Đảo, PVC chỉ yêu cầu Tòa án buộc Trịnh Xuân Thanh và Đỗ Văn Hồng liên đới bồi thường cho PVC số tiền hơn 13 tỷ đồng là số tiền bị thiệt hại do hành vi tạm ứng tiền và góp vốn trái quy định gây nên.
Công ty Mai Phương viện dẫn Điều 5, khoản 1 – BLTTDS 2015 quy định: “Tòa án chỉ thụ lý giải quyết vụ việc dân sự khi có đơn khởi kiện, đơn yêu cầu của đương sự và chỉ giải quyết trong phạm vi đơn khởi kiện, đơn yêu cầu đó”. Công ty Mai Phương cho rằng, việc Tòa cấp sơ thẩm tuyên trả lại cho PVC lô đất là giải quyết vượt quá phạm vi yêu cầu của PVC.
Do vậy, theo Công ty Mai Phương, trong khi đương sự là PVC không yêu cầu được sở hữu và trả lại 3.400m2 đất, đại diện Viện kiểm sát giữ quyền công tố tại phiên tòa cũng chỉ đề nghị Trịnh Xuân Thanh và Đỗ Văn Hồng liên đới bồi thường hơn 13 tỷ đồng cho PVC nhưng Tòa cấp sơ thẩm lại tuyên trả lại lô đất cho PVC là trái với nguyên tắc “quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự”.
Trong đơn, Công ty Mai Phương cho rằng, nếu đủ căn cứ cho rằng Đỗ Văn Hồng dùng số tiền tạm ứng (sau này là góp vốn của PVC) để mua lô đất thì vấn đề giao dịch vô hiệu mới được đặt ra. Trong trường hợp đó, Tòa cấp sơ thẩm lẽ ra phải xác định rõ giao dịch nào là giao dịch vô hiệu để giải quyết quyền và lợi ích của người thứ ba ngay tình.
Trong vụ án này, Tòa cấp sơ thẩm tuyên Trịnh Xuân Thanh phạm tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ” về hành vi tạm ứng và góp vốn trái quy định. Như vậy phải xác định “góp vốn” mới là giao dịch vô hiệu vì góp vốn cũng là giao dịch dân sự. Còn các giao dịch tiếp theo có vô hiệu hay không và giải quyết vấn đề vô hiệu như thế nào còn phải tuân theo quy định của pháp luật dân sự. Trong giao dịch chuyển nhượng quyền sử dụng lô đất giữa PVC Kinh Bắc và Công ty Mai Phương, đối tượng giao dịch đã được đăng ký tại cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Công ty Mai Phương phải trả tiền để có được quyền sử dụng hợp pháp lô đất chứ không phải tự nhiên mà có.
Từ những phân tích trên, Công ty Mai Phương cho rằng nếu giao dịch góp vốn bị tuyên là vô hiệu thì những giao dịch tiếp theo (bao gồm giao dịch nhận chuyển nhượng phần vốn góp của ông Kiều Đào Lâm) phải được xem xét vấn đề ngay tình và phải bảo vệ quyền lợi của các bên thứ ba ngay tình.
Giao dịch chuyển nhượng toàn bộ phần vốn góp của bà Trần Dương Nga trong Công ty Mai Phương cho ông Kiều Đào Lâm, trong đó có quyền sử dụng lô đất là giao dịch không bị pháp luật cấm; ông Kiều Đào Lâm không biết và không thể biết về việc lô đất mà PVC Kinh Bắc chuyển nhượng cho Công ty Mai Phương được hình thành từ nguồn tiền nào. Do vậy, trong trường hợp này phải áp dụng quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người thứ ba ngay tình khi giao dịch dân sự vô hiệu.
Như vậy, chủ sở hữu hiện tại của Công ty Mai Phương là ông Kiều Đào Lâm - người đang quản lý và sử dụng lô đất phải được xác định là người thứ ba ngay tình và cần được pháp luật bảo vệ.
Trên cơ sở đó, Công ty Mai Phương khẳng định, việc Tòa cấp sơ thẩm tuyên trả lại lô đất cho PVC là không đúng thực tế khách quan, không đúng pháp luật, làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của Công ty Mai Phương…
Theo đó, Công ty Mai Phương đề nghị Tòa cấp phúc thẩm xem xét sửa bản án sơ thẩm theo hướng: Trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng lô đất 3.400 m2 cho Công ty Mai Phương; Bỏ toàn bộ nội dung liên quan đến việc chuyển nhượng Công ty Mai Phương, chuyển nhượng, sử dụng, xây dựng trên lô đất 3.400 m2 đất Tam Đảo: “các bên liên quan có quyền tự giải quyết, nếu có tranh chấp, các cá nhân, pháp nhân có liên quan có quyền khởi kiện bằng vụ án dân sự khác khi có yêu cầu”.
Trước đó, TAND TP Hà Nội đã mở phiên tòa sơ thẩm xét xử vụ án này. Bị cáo Đinh La Thăng bị tuyên phạt 11 năm tù về tội “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng”. Tổng hợp với bản án 30 năm tù trước đó, hình phạt chung áp dụng đối với bị cáo Thăng là 30 năm tù.
Bị cáo Trịnh Xuân Thanh bị phạt 18 năm tù về hai tội “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” và “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Tổng hợp với các bản án trước đó, hình phạt chung đối với bị cáo Thanh là tù chung thân. Bị cáo Đỗ Văn Hồng bị tuyên phạt 4 năm tù về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Tổng hợp với bản án 13 năm tù trước đó, hình phạt chung đối với bị cáo Đỗ Văn Hồng là 17 năm tù.
6 bị cáo kháng cáo nêu trên cùng bị tuyên phạt về tội “Vi phạm quy định về đầu tư công trình xây dựng gây hậu quả nghiêm trọng” gồm: Vũ Thanh Hà bị tuyên phạt 6 năm 6 tháng tù; Phạm Xuân Diệu 3 năm 6 tháng tù; Nguyễn Xuân Thủy 30 tháng tù; Khương Anh Tuấn 30 tháng tù; Hoàng Đình Tâm 30 tháng và Lê Thanh Thái 24 tháng tù.