Vụ án kéo dài hơn 22 năm chưa có hồi kết...
Ngày 11/9, Tòa án Nhân dân (TAND) Khu vực 7 - Ninh Bình sẽ đưa ra xét xử sơ thẩm vụ án dân sự thụ lý số 39/2003/TLST-DS ngày 21/7/2003.

Các “bị đơn” trong vụ án trao đổi thông tin với luật sư trước phiên xét xử. Ảnh: N.M.
Vụ án dân sự được thụ lý căn cứ vào 4 “Đơn đề nghị đòi lại phần thừa kế bị chiếm đoạt”
Sau hơn 2 thập kỷ “ngâm án” với các vấn đề pháp lý còn chưa rõ ràng, vụ án sẽ được đưa ra xét xử công khai. Tuy nhiên, có một số vướng mắc, bất cập tại vụ án này, đòi hỏi các cơ quan tố tụng phải xem xét thận trọng, trước khi đưa ra các phán quyết chính thức nhằm đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Vụ án dân sự thụ lý số 39/2003/TLST-DS ngày 21/7/2003 là vụ án “lạ kỳ” bởi, từ năm 2003 đến nay, các cấp tòa của tỉnh Nam Định cũ (nay là tỉnh Ninh Bình) đã thụ lý và tiến hành các hoạt động chuẩn bị xét xử vụ án trên cơ sở các “Đơn đề nghị” của công dân.
Luật sư Bùi Thị Kim Liên, Công ty Luật TNHH Sinh Hùng, Đoàn Luật sư TP Hà Nội, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị đơn cho biết, trong vụ án trên không có “Đơn khởi kiện” hợp lệ nào theo quy định của pháp luật về hình thức đơn khởi kiện; chỉ có các đơn: “Đơn đề nghị đòi lại phần tài sản thừa kế bị chiếm đoạt” của bà Tạ Thị Phượng đề ngày 23/6/2003; “Đơn đề nghị đòi lại phần tài sản thừa kế bị chiếm đoạt” của bà Tạ Thị Lược (tức Đảo) đề ngày 3/7/2003; “Đơn đề nghị đòi lại phần tài sản thừa kế bị chiếm đoạt” của Đỗ Văn Thanh ghi ngày 26/6/2003; “Đơn đề nghị đòi lại phần tài sản thừa kế bị chiếm đoạt” của Tạ Văn Ngọc ghi ngày 26/6/2003…
Các “đơn đề nghị” này không thỏa mãn về mặt hình thức theo quy định tại khoản 3 Điều 34 Pháp lệnh số 27- LCT/HĐNN8 ngày 7/12/1989 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự: “Người khởi kiện phải làm đơn ghi rõ họ tên, địa chỉ của mình; của bị đơn, của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan”. Vì vậy, không có căn cứ thụ lý hoặc cần phải xem xét vấn đề “Tòa án đang thụ lý sai” và xem xét trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong việc bảo đảm thi hành pháp luật.
Nguyên đơn khẳng định “không khởi kiện công dân khác"?
Tại Quyết định số 04/2025/QĐXXST-DS ngày 4/8/2025 về việc đưa vụ án ra xét xử, TAND Khu vực 7 - Ninh Bình xác định các “nguyên đơn” trong vụ án dân sự thụ lý số 39/2003/TLST-DS ngày 21/7/2003, là các ông, bà: bà Tạ Thị Phượng (đã chết); bà Tạ Thị Lược (đã chết); ông Đỗ Văn Thanh (con bà Tạ Thị Thao); ông Tạ Văn Ngọc (con ông Tạ Văn Lý).
Đáng nói, cần phải xem xét tư cách của 2 “nguyên đơn” ông Tạ Văn Ngọc và ông Đỗ Văn Thanh, họ đã có tư cách hợp pháp tham gia phiên tòa hay chưa? Bởi, theo hồ sơ vụ án, không có văn bản nào ghi nhận việc ông Tạ Văn Lý chuyển giao quyền đòi tài sản sang cho con là ông Tạ Văn Ngọc; cũng không thấy văn bản nào ghi nhận việc những người thừa kế của ông Lý đồng ý ủy quyền cho ông Ngọc đòi tài sản tranh chấp.
Điều này cũng tương tự với trường hợp của ông Đỗ Văn Thanh. Không có một văn bản, giấy tờ nào khẳng định tư cách hợp pháp của nguyên đơn này. Vậy là, về cơ bản, cả 2 “nguyên đơn” Tạ Văn Ngọc - Đỗ Văn Thanh đều không có tư cách hợp pháp. Vấn đề đặt ra là: “Nguyên đơn” - chủ thể chủ động yêu cầu Tòa án giải quyết quyền lợi cho mình trong vụ án - giờ không còn ai. Vậy, nên chăng cần xem xét tới việc đình chỉ giải quyết vụ án dân sự này?!
Tiếp đó, Quyết định số 04/2025/QĐXXST-DS ngày 4/8/2025 cũng xác định “bị đơn” ở vụ án dân sự thụ lý số 39/2003/TLST-DS ngày 21/7/2003 là các ông: Tạ Văn Chất (đã chết); Tạ Xuân Trường (đã chết); Tạ Văn Hùng; Tạ Văn Hạnh.
Vậy nhưng, trong bút lục số 639 và 655 là bản tự khai của những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong vụ án là bà Nguyễn Thị Yến và bà Lê Thị Cúc (khai năm 2019) đều khẳng định: "... các ông Tạ Văn Chất, Tạ Xuân Trường, Tạ Văn Hùng, Tạ Văn Hạnh không phải bị đơn, vì chúng tôi không khởi kiện họ”.
Như vậy, phải chăng trong vụ án này, không có nguyên đơn cũng như không có bị đơn?
Cần đình chỉ vụ án?
Vụ án dân sự thụ lý số 39/2003/TLST-DS ngày 21/7/2003 cũng “kỳ lạ” ở chỗ, giả sử các “đơn khởi kiện” là hợp lệ, giả sử vụ án xác định đúng “bị đơn” và đối tượng khởi kiện, thì cũng có những điều chưa rõ ràng khi xác định quan hệ tranh chấp. Cụ thể, từ khi tòa án thụ lý vào năm 2003 đến nay, việc xác định quan hệ tranh chấp của các cấp tòa không đồng nhất. Đến thời điểm hiện tại, chưa làm rõ đây là quan hệ tranh chấp “kiện đòi tài sản”, hay đây là quan hệ tranh chấp về “quyền sử dụng đất”?
Hơn nữa, các “nguyên đơn” trong vụ án này đang khởi kiện theo kết quả chia thừa kế của Bản án số 201 ban hành năm 1979 của TAND tỉnh Hà Nam Ninh (cũ). Bản án này đã có hiệu lực pháp luật hơn 40 năm. Việc đương sự đòi quyền lợi của mình từ một bản án có hiệu lực gần nửa thế kỷ trước, liệu còn thuộc thẩm quyền của tòa án hay không?
Trong trường hợp này, tại sao tòa án không trả lại đơn khởi kiện, căn cứ theo các quy định tại khoản 3, 4, 5 Điều 36 Pháp lệnh số 27- LCT/HĐNN8 về thủ tục giải quyết các vụ án dân sự? Bởi sự việc đã được giải quyết bằng bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án. Sự việc được pháp luật quy định phải yêu cầu cơ quan khác giải quyết nhưng đương sự chưa yêu cầu?
Bên cạnh đó, cần phải xem xét lại tất cả các văn bản ủy quyền, các giấy tờ, tài liệu chứng minh việc các “nguyên đơn” có mặt tại phiên tòa xét xử sơ thẩm là đại diện hợp pháp của các “nguyên đơn ban đầu” theo Thông báo thụ lý vụ án số: 39/2003. Bởi khi các nguyên đơn (người ủy quyền) đã chết, hoạt động ủy quyền chấm dứt, mọi hậu quả pháp lý phát sinh do người được ủy quyền xác lập, thực hiện đều không có giá trị pháp lý đối với người đã ủy quyền. Và việc ủy quyền cần phải tuân thủ chặt chẽ các quy định pháp luật, bao gồm việc lập văn bản ủy quyền rõ ràng về nội dung, phạm vi, thời hạn, đảm bảo cả hai bên có đầy đủ năng lực pháp luật và hành vi dân sự, tuân thủ tính tự nguyện và hợp pháp, cũng như các thủ tục công chứng/chứng thực theo yêu cầu của pháp luật hoặc nhu cầu của các bên.
Trao đổi về việc Tòa án thụ lý vụ án trên cơ sở các “Đơn đề nghị” và các căn cứ xét thấy cần đình chỉ vụ án, luật sư Bùi Thị Kim Liên - Đoàn Luật sư TP Hà Nội cho biết, trong toàn bộ hồ sơ vụ án, luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho các bị đơn nhận thấy rằng, không có bất cứ đơn khởi kiện hợp pháp nào được ghi nhận trong hồ sơ.
Ngoài ra, toàn bộ hơn 1.000 bút lục của vụ án, không thấy có Thông báo thụ lý vụ án số 39/2003/TLST-DS ngày 21/7/2003. Những điều này cho thấy, các cơ quan tố tụng phải xem xét lại việc, có hay không có sai sót trong quá trình thụ lý vụ án này. Đồng thời, xem xét việc cần thiết phải ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án này căn cứ theo quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 192; điểm g khoản 1 Điều 217 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
Do đó, luật sư cho rằng, cần đình chỉ giải quyết vụ án, trả lại đơn được cho là đơn “khởi kiện” và hướng dẫn cho các nguyên đơn xác định lại quan hệ tranh chấp và đối tượng khởi kiện. Có như vậy, vụ án mới được xem xét kỹ lưỡng, mới thấy đầy đủ để đảm bảo giải quyết đúng đắn, tránh sai sót hoặc thiếu sót.