Vụ sai phạm Công ty Gang thép Thái Nguyên: VKSND tối cao truy tố 19 bị can gây thiệt hại hơn 830 tỉ đồng
BVPL)- Trong quá trình thực hiện dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 của TISCO, những người có trách nhiệm đã để xảy ra nhiều sai phạm, khiến dự án chậm tiến độ hơn 10 năm, gây thiệt hại số tiền hơn 830 tỉ đồng.
Truy tố 19 bị can gây thiệt hại 830 tỉ đồng
Ngày 5/2/2021, VKSND tối cao đã ban hành cáo trạng vụ án “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” và “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng” xảy ra tại Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2, Công ty CP Gang thép Thái Nguyên (TISCO) và một số đơn vị có liên quan. Đồng thời, truy tố 19 bị can có liên quan.
14 bị can bị truy tố về tội “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí” gồm: Mai Văn Tinh, cựu Chủ tịch HĐQT Tổng công ty Thép Việt Nam (VNS); Đậu Văn Hùng, cựu Tổng giám đốc VNS; Trần Trọng Mừng, cựu Tổng giám đốc TISCO; Trần Văn Khâm, cựu Chủ tịch HĐQT, Tổng giám đốc TISCO; Ngô Sỹ Hán, cựu Phó Tổng giám đốc, Trưởng ban Quản lý dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 - TISCO…
5 bị can bị truy tố tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, theo khoản 3, Điều 360 Bộ luật Hình sự 2015 gồm: Lê Phú Hưng (nguyên thành viên HĐQT Tổng Công ty gang thép Việt Nam), và các bị can nguyên thành viên HĐQT Tổng Công ty Thép Việt Nam: Nguyễn Minh Xuân, Nguyễn Chí Dũng, Hoàng Ngọc Diệp, Đoàn Thu Trang.
Vụ án xảy ra tại TISCO là một trong những đại án lớn về kinh tế, tham nhũng được Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng xếp vào diện theo dõi, chỉ đạo.
Theo nội dung cáo trạng của VKSND tối cao, Dự án mở rộng sản xuất giai đoạn 2 do TISCO làm chủ đầu tư được triển khai từ năm 2007 với tổng mức đầu tư dự kiến 3.843 tỉ đồng.
Đơn vị trúng thầu là Tập đoàn Khoa học công nghệ và thương mại luyện kim Trung Quốc (MCC). Tháng 7/2007, Trần Trọng Mừng, Tổng giám đốc TISCO đã ký hợp đồng số 01 EPC với đại diện của MCC. Giá trị hợp đồng hơn 160 triệu USD, là giá trọn gói không thay đổi trong suốt quá trình thực hiện hợp đồng. Thời gian thực hiện hợp đồng được ấn định là 30 tháng.
Đến tháng 8/2008, sau hơn 11 tháng khởi công xây dựng, MCC tự ý dừng hợp đồng, rút hết người về nước trong khi chưa hoàn thành thiết kế chi tiết các hạng mục, chưa lựa chọn và ký được hợp đồng với nhà thầu phụ, chưa triển khai thi công bất kỳ hạng mục nào của gói thầu nhưng lại có nhiều văn bản gửi TISCO đề nghị kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng.
Không có căn cứ để điều chỉnh hợp đồng
Theo nội dung cáo trạng, ngày 30/3/2009, Bộ Công Thương có Văn bản số 147/TB-BCT thông báo kết luận của Thứ trưởng Lê Dương Quang tại cuộc họp ngày 25/3/2009 (có sự tham gia của TISCO, VNS và MCC), có nội dung: Tiến độ dự án bị chậm (khoảng 8 tháng).
Hợp đồng EPC số 01# là văn bản pháp lý cao nhất các bên có nghĩa vụ phải tuân thủ nghiêm túc. Về nguyên tắc, đây là Hợp đồng EPC trọn gói, không điều chỉnh giá… Chủ đầu tư hỗ trợ MCC tìm kiếm nhà thầu phụ Việt Nam để thực hiện công tác xây lắp...
Đến ngày 23/4/2009, Trần Trọng Mừng, Ngô Sỹ Hán, Đặng Văn Tập, Đồng Quang Dương, Đỗ Xuân Hòa, đại diện cho TISCO tiến hành đàm phán với MCC, đại diện là bà Yu Shu Xian (Vu Thục Hiền).
MCC đề xuất: Phần E, P do MCC tổ chức thực hiện và chịu rủi ro, phần C do TISCO tổ chức thực hiện và chịu rủi ro; TISCO giới thiệu cho một nhà thầu phụ Việt Nam có đủ năng lực đảm nhiệm phần C của Hợp đồng; MCC sẽ thu phí quản lý phần C; Trong quá trình thực hiện phần C của hợp đồng, phần giá cả cần thiết thực tế vượt quá 42.929.901 USD do TISCO chịu…
Ý kiến của TISCO: Đối với phần C của Hợp đồng EPC số 01# được giải quyết theo nguyên tắc tôn trọng các điều khoản trong Hợp đồng EPC đã ký, biên bản ghi nhớ cuộc họp ngày 22/10/2008 tại Bắc Kinh, ý kiến chỉ đạo của Phó Thủ tướng Chính phủ, tinh thần cuộc họp của Bộ Công Thương ngày 25/3/2009…
Để có căn cứ xem xét giải quyết tiếp theo, TISCO đã yêu cầu và Hãng luật Kelvin Chia Partnership đã có văn bản tư vấn ngày 28/4/2009, có nội dung: Việc tăng giá nguyên vật liệu và các biến động về tỷ giá không được xác định là các trường hợp bất khả kháng theo hợp đồng và theo đúng tính chất của các sự kiện bất khả kháng được liệt kê và quy định tại Điều 19 của GCC.
Do MCC đã chấp nhận các rủi ro này khi họ đấu thầu và trúng thầu dự án; MCC không thể đơn phương điều chỉnh và tăng giá hợp đồng. Họ cũng không thể chấm dứt hợp đồng với lý do là giá nguyên vật liệu tăng cao hay tỷ giá biến động bất lợi cho họ. Nếu họ làm như vậy thì họ sẽ vi phạm hợp đồng và sẽ phải có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại cho TISCO…
Như vậy, trên cơ sở nội dung kết luận tại cuộc họp của Bộ Công Thương ngày 25/3/2009, quan điểm của TISCO tại lần đàm phán với MCC ngày 23/4/2009; tư vấn của Hãng luật Kelvin Chia Partnership nêu trên và các quy định của pháp luật, của Hợp đồng EPC số 01#.
Vẫn điều chỉnh hợp đồng dù không có cơ sở
Theo nội dung cáo trạng, Trần Trọng Mừng, Tổng Giám đốc và các cá nhân có liên quan thuộc TISCO, VNS biết rõ và xác định không có căn cứ để điều chỉnh hợp đồng, điều chỉnh chi phí tăng thêm của phần C, các bên đều phải có nghĩa vụ tuân thủ nghiêm túc, tôn trọng các điều khoản đã ký trong Hợp đồng EPC số 01#.
Đồng thời, TISCO chỉ dựa trên sự giới thiệu của Bộ Công Thương tại văn bản số 4320/BCT-CNNg ngày 14/5/2009 mà không tiến hành thẩm định và cũng không có căn cứ pháp lý nào để xác định VINAINCON có đủ năng lực làm nhà thầu phụ thực hiện phần C của Hợp đồng EPC số 01#.
Tiếp đó, Trần Trọng Mừng vẫn chỉ đạo Đặng Văn Tập, Đồng Quang Dương tham mưu, ký kiểm soát để trình Trần Trọng Mừng ký Văn bản số 475/GTTN-QLDA, có nội dung báo cáo Bộ Công Thương và VNS, đề nghị báo cáo Chính phủ phê duyệt chủ trương: Chọn VINAINCON làm nhà thầu phụ thực hiện phần C và được phép điều chỉnh chi phí thực hiện phần C cho nhà thầu phụ Việt Nam; Chủ đầu tư sẽ trực tiếp quản lý chi phí phần C đồng thời đứng ra làm trung gian giám sát việc ký, thực hiện hợp đồng thầu phụ thực hiện phần C ký giữa MCC và thầu phụ VINAINCON là không có cơ sở pháp lý, không đúng quy định của Hợp đồng EPC số 01#.
Trên cơ sở đề nghị nêu trên của TISCO, Trịnh Khôi Nguyên, Trưởng Phòng Đầu tư phát triển VNS đã chỉ đạo Lê Thu Hiền, Chuyên viên Phòng Đầu tư phát triển VNS xây dựng dự thảo văn bản và Nguyên ký kiểm soát để Đậu Văn Hùng, Tổng Giám đốc VNS ký Tờ trình đề nghị HĐQT báo cáo Chính phủ chấp thuận chủ trương: Chọn VINAINCON làm nhà thầu phụ thực hiện phần C của Hợp đồng EPC số 01#; cho phép Chủ đầu tư được điều chỉnh chi phí thực hiện phần C theo các quy định về điều chỉnh giá và hợp đồng xây dựng; nhà thầu phụ Việt Nam (VINAINCON) được thực hiện phần C dưới hình thức hợp đồng theo đơn giá...
Sau đó, Đặng Thúc Kháng, Ủy viên HĐQT kiêm Trưởng Ban kiểm soát VNS đã có bút phê chỉ đạo Nguyễn Văn Tráng, thành viên Ban kiểm soát VNS, xem và có ý kiến.
Đến ngày 25/6/2009, Nguyễn Văn Tráng có văn bản thẩm định gửi Đặng Thúc Kháng, có nội dung: Nhất trí với phương án giải quyết khó khăn của Hợp đồng EPC số 01#; thống nhất báo cáo Bộ, Chính phủ chấp thuận chủ trương: Chọn VINAINCON là nhà thầu phụ; cho phép chủ đầu tư được điều chỉnh chi phí thực hiện phần C theo các quy định về điều chỉnh giá và hợp đồng xây dựng và VINAINCON được thực hiện phần C dưới hình thức hợp đồng theo đơn giá...
Cùng ngày 25/6/2009, Đặng Thúc Kháng có ý kiến chỉ đạo trên văn bản của Nguyễn Văn Tráng, có nội dung: Ban kiểm soát đã thẩm định và nhất trí, anh cho lấy ý kiến các Ủy viên HĐQT và dự thảo văn bản trình để anh Tinh (Mai Văn Tinh-PV) ký.
Trong ngày 25/6/2009, Hoàng Ngọc Chiến, Phó Văn phòng VNS gửi email kèm theo Tờ trình số 835/TTr-VNS ngày 23/6/2009 và văn bản thẩm định ngày 25/6/2009 của Ban kiểm soát VNS đến tất cả các Ủy viên HĐQT VNS, gồm: Đặng Thúc Kháng, Lê Phú Hưng, Nguyễn Minh Xuân, Mai Văn Tinh, Đậu Văn Hùng.
Tờ trình có nội dung: Tổng Giám đốc trình HĐQT VNS xem xét: “Thống nhất phương án giải quyết khó khăn của Hợp đồng EPC số 01# thuộc dự án giai đoạn 2; Thống nhất báo cáo Chính phủ và Bộ ngành liên quan chấp thuận chủ trương chọn VINAINCON làm nhà thầu phụ thực hiện Phần C của Hợp đồng EPC số 01#; Cho phép Chủ đầu tư được điều chỉnh chi phí thực hiện phần C theo các quy định về điều chỉnh giá và hợp đồng xây dựng. VINAINCON được thực hiện phần C dưới hình thức hợp đồng theo đơn giá”.
Cùng ngày 25/6/2009, Đặng Thúc Kháng gửi email trả lời cho các thành viên HĐQT và ông Hoàng Ngọc Chiến, có nội dung: Tôi nhất trí.
Gây thiệt hại hơn 830 tỉ đồng
Theo nội dung cáo trạng, quá trình thực hiện Hợp đồng EPC số 01#, MCC đã vi phạm trong việc sau hơn 11 tháng kể từ khi hợp đồng có hiệu lực thực hiện, MCC chưa lựa chọn và ký được hợp đồng với nhà thầu phụ; chưa hoàn thành thiết kế chi tiết các hạng mục, không đặt hàng chế tạo máy móc thiết bị, không triển khai thi công các hạng mục của gói thầu, mà rút hết người về nước và nhiều lần đề nghị kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng và tăng giá hợp đồng không có căn cứ, không phù hợp quy định của pháp luật, không đúng với nội dung các bên đã thỏa thuận trong hợp đồng.
Với chức trách, nhiệm vụ, quyền hạn được giao, bị can Trần Trọng Mừng, bị can Mai Văn Tinh đã không xem xét, chỉ đạo dừng, chấm dứt hợp đồng, thu hồi tiền tạm ứng, áp dụng điều khoản phạt hợp đồng, báo cáo người có thẩm quyền xem xét để hủy đấu thầu và tổ chức đấu thầu lại theo quy định để đảm bảo hiệu quả và tiến độ của Dự án, mà lại chỉ đạo thực hiện các hành vi phạm pháp luật về đầu tư, vi phạm Hợp đồng EPC số 01# để tiếp tục thực hiện Hợp đồng, cùng với các bị can Trần Văn Khâm, Đậu Văn Hùng chỉ đạo các cá nhân có liên quan thuộc TISCO và VNS, tổ chức, thực hiện việc điều chỉnh dự toán chi phí phần C;
Tham gia ký hợp đồng thầu phụ thực hiện phần C của Hợp đồng EPC số 01# theo hình thức hợp đồng theo đơn giá, TISCO trực tiếp nghiệm thu, thanh toán cho nhà thầu phụ thực hiện phần C, tự chịu mọi rủi ro, đã làm phá vỡ nguyên tắc thực hiện hợp đồng theo hình thức trọn gói của Hợp đồng EPC số 01#, khi nhà thầu phụ không hoàn thành phần C thì không ràng buộc được trách nhiệm của MCC, tạo điều kiện để MCC có lý do chối bỏ trách nhiệm thực hiện Hợp đồng EPC số 01#; chấp thuận không có căn cứ VINAINCON làm nhà thầu phụ thực hiện phần C của Hợp đồng EPC số 01# trong khi VINAINCON không đủ năng lực để thực hiện, là vi phạm khoản 17, 31 Điều 4, Điều 49 Luật Đấu thầu năm 2005; khoản 1 Điều 7; Điều 11; khoản 1 Điều 21 Nghị định số 99/2007/NĐ-CP; điểm 7.6.1, điểm 7.9.1. Thông tư số 06/2007/TT- BXD của Bộ Xây dựng, vi phạm quy định của Hợp đồng EPC số 01#.
Các vi phạm này chính là nguyên nhân dẫn đến dự án chậm tiến độ, làm phát sinh tăng lãi vay, tăng chi phí đầu tư, gây thất thoát, lãng phí đặc biệt nghiêm trọng tài sản Nhà nước.
Các bị can Đặng Thúc Kháng, Nguyễn Trọng Khôi, Ngô Sỹ Hán, Đặng Văn Tập, Đồng Quang Dương, Trịnh Khôi Nguyên, Nguyễn Văn Tráng, Đỗ Xuân Hòa, Uông Sỹ Bính và Lê Thị Tuyết Lan đã có hành vi đồng phạm các vi phạm nêu trên.
Các bị can Lê Phú Hưng, Nguyễn Minh Xuân đã không thực hiện hết trách nhiệm của thành viên HĐQT VNS khi cho ý kiến nhất trí với Tờ trình số 835/TTr-VNS ngày 23/6/2009 của Tổng Giám đốc đề nghị HĐQT VNS báo cáo Bộ Công Thương và Chính phủ chấp thuận cho điều chỉnh chi phí thực hiện phần C, nhà thầu phụ VINAINCON được thực hiện phần C dưới hình thức hợp đồng theo đơn giá không có căn cứ; các bị can Nguyễn Chí Dũng, Hoàng Ngọc Diệp, Đoàn Thu Trang đã không thực hiện hết trách nhiệm của thành viên HĐQT TISCO khi cho ý kiến nhất trí với Tờ trình số 405/TTr-GTTN ngày 4/11/2009 của Tổng Giám đốc đề nghị HĐQT TISCO phê duyệt điều chỉnh cơ cấu tổng mức đầu tư dự án, trong đó có dự phòng cho phần C là 15,57 triệu USD không có căn cứ.
Hành vi nêu trên của các bị can đã gây hậu quả thất thoát, lãng phí tài sản Nhà nước hơn 830 tỉ đồng.