Xã hội hóa giáo dục còn gặp khó khăn, lãnh đạo trường mầm non đề xuất giải pháp

Ngoài nguồn ngân sách nhà nước, cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục để cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất, kiên cố hóa trường lớp.

Vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Kế hoạch nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm năm học 2025 - 2026 của ngành Giáo dục.

Cùng với Kế hoạch, Bộ Giáo dục và Đào tạo đề ra một số chỉ tiêu về giáo dục và đào tạo của cả nước phấn đấu đạt được trong năm học 2025-2026, trong đó có mục tiêu “Tỷ lệ trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 đạt 44,50%; Tỷ lệ trường mầm non đạt chuẩn quốc gia mức độ 1 đạt 15%”.

Xây dựng trường học đạt chuẩn quốc gia là chủ trương lớn, mang tính chiến lược của ngành giáo dục nhằm chuẩn hóa cơ sở vật chất và đội ngũ nhà giáo, nâng cao chất lượng giáo dục. Xác định rõ mục tiêu đó, bên cạnh nguồn ngân sách nhà nước, các trường mầm non cũng thực hiện công tác xã hội hóa để đầu tư cho cơ sở vật chất, kiên cố hóa trường lớp.

Nhiều công trình phụ, cơ sở vật chất xuống cấp theo thời gian

Trao đổi với phóng viên Tạp chí điện tử Giáo dục Việt Nam, cô Lê Thị Quang - Phó Hiệu trưởng Trường Mầm non Tam Quang (xã Tam Quang, tỉnh Nghệ An) chia sẻ, thời gian qua, nhà trường luôn có kế hoạch đảm bảo các quy chuẩn về đội ngũ, cơ sở vật chất, trường lớp để nâng cao chất lượng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ em mầm non, tuy nhiên thực tế triển khai vẫn còn nhiều khó khăn.

Là một trường ở vùng cao, việc để được công nhận là trường đạt chuẩn quốc gia còn gặp nhiều vướng mắc. Theo quy định, để được công nhận đạt chuẩn quốc gia các trường học phải đáp ứng đủ 5 tiêu chí, gồm: Tổ chức quản lý nhà trường; cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên; cơ sở vật chất và thiết bị dạy học; quan hệ giữa nhà trường, gia đình và xã hội; hoạt động và kết quả nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục trẻ.

“Trong đó khó khăn lớn nhất hiện nay của trường nằm ở cơ sở vật chất và trang thiết bị dạy học. Nhiều hạng mục được đầu tư từ lâu đến nay đã xuống cấp theo thời gian.

Đặc biệt, hệ thống nhà vệ sinh ở các điểm trường chủ yếu là công trình tạm, các thiết bị, đồ dùng học tập và đồ chơi theo danh mục tối thiểu của chương trình giáo dục mầm non mới cũng thiếu hụt đáng kể.

Cùng với đó, tình trạng thiếu giáo viên chưa được giải quyết dứt điểm cũng là một trong những thách thức. Trên thực tế, không ít trường hợp sinh viên tốt nghiệp sư phạm mầm non sau khi ra trường đã lựa chọn chuyển sang làm công việc khác, hoặc chọn công tác tại những vùng có điều kiện thuận lợi hơn”, cô Quang chia sẻ.

 Ảnh minh họa. Website Trường Mầm non Hòa Mục (Xã Tân Kỳ, tỉnh Thái Nguyên)

Ảnh minh họa. Website Trường Mầm non Hòa Mục (Xã Tân Kỳ, tỉnh Thái Nguyên)

Cùng bàn về vấn đề này, cô Phạm Thị Thảo - Hiệu trưởng Trường Mầm non Hòa Mục (Xã Tân Kỳ, tỉnh Thái Nguyên) chia sẻ, một trong những thách thức tại trường chính là về cơ sở vật chất, cụ thể hiện nay trường vẫn thiếu phòng học, phòng chức năng và sân chơi cho trẻ. Nhà vệ sinh hiện vẫn chưa khép kín, gây khó khăn cho việc chăm sóc các trẻ nhỏ tuổi.

Bên cạnh đó, mặc dù số lượng giáo viên hiện tại đã đáp ứng đủ định mức 2 cô/lớp theo quy định, song chất lượng chuyên môn giữa các giáo viên còn chưa đồng đều. Điều này dẫn đến sự chênh lệch trong hiệu quả tổ chức các hoạt động giáo dục, cũng như việc xây dựng môi trường học tập đồng bộ, chất lượng cho trẻ.

Vì vậy, để phấn đấu đạt mục tiêu tỷ lệ trường mầm non đạt chuẩn quốc gia, mỗi nhà trường cần có lộ trình cải thiện cơ sở vật chất, trước mắt, nhà trường tiếp tục thực hiện công tác tham mưu với các cấp quản lý, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị cũng như quy hoạch diện tích đất đảm bảo đủ điều kiện, từng bước hoàn thiện các hạng mục theo đúng tiêu chuẩn quy định.

Cùng với đó, cần tiếp tục đổi mới công tác quản lý giáo dục, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy cũng như chú trọng bồi dưỡng, phát triển trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, giáo viên. Đồng thời áp dụng các phương pháp dạy học hiện đại, qua đó cải thiện chất lượng giáo dục và từng bước rút ngắn khoảng cách giữa khu vực miền núi và đồng bằng.

Còn theo Phó Hiệu trưởng Trường Mầm non Tam Quang, cần tăng cường cơ sở vật chất trường lớp, trang thiết bị dạy học, đặc biệt là đầu tư cho các phòng chức năng và các công trình phụ như bếp ăn, nhà vệ sinh, sân chơi, khu vui chơi ngoài trời.

Đồng thời, thường xuyên rà soát, sắp xếp, quy hoạch, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên, nhân viên đủ về số lượng, đảm bảo về chất lượng, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục. Tạo điều kiện, khuyến khích đội ngũ cán bộ quản lý, giáo viên tham gia học tập, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ.

Ngoài nguồn ngân sách nhà nước, cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục từ các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân để cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất, kiên cố hóa trường lớp.

Tiếp tục đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục

Công tác xã hội hóa góp phần quan trọng tăng tỷ lệ trường đạt chuẩn quốc gia. Hiểu được tầm quan trọng của điều này, nhiều trường học đã chủ động triển khai công tác xã hội hóa giáo dục, góp phần cải thiện, nâng cấp cơ sở vật chất. Tuy nhiên, quá trình thực hiện vẫn còn gặp không ít khó khăn và thách thức.

Theo cô Hoàng Thị Quý - Hiệu trưởng Trường Mầm non Bộc Bố (xã Bằng Thành, tỉnh Thái Nguyên), hiện nay, một số phòng học của trường vẫn là bán kiên cố hoặc có một số công trình được xây dựng, đầu tư từ lâu đã xuống cấp không còn đảm bảo theo Thông tư số 13/2020/TT-BGDĐT của Bộ Giáo dục và Đào tạo: Ban hành Quy định tiêu chuẩn cơ sở vật chất các trường mầm non, tiểu học, trung học cơ sở, trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp học.

Để cải thiện cơ sở vật chất, ngoài sự hỗ trợ của các cấp quản lý, thời gian qua nhà trường đã thực hiện công tác xã hội hóa giáo dục. Tuy nhiên, thực tế khi triển khai vẫn còn nhiều thách thức.

“Ở những địa bàn vùng cao, đời sống của người dân còn nhiều thiếu thốn cũng như khả năng hỗ trợ từ doanh nghiệp, nhà tài trợ trên địa bàn còn nhiều hạn chế, khiến việc huy động từ nguồn lực này còn gặp khó khăn.

Đồng thời, do nằm cách xa các trung tâm, lại thêm hệ thống giao thông chưa hoàn thiện và điều kiện thông tin còn hạn chế, nên việc liên hệ, huy động sự hỗ trợ từ doanh nghiệp, các tổ chức thiện nguyện hay nhà hảo tâm cũng gặp trở ngại.

Trong năm qua, một số doanh nghiệp đã đồng hành cùng nhà trường trong việc xây dựng nhà vệ sinh cho học sinh tại điểm trường và lắp đặt hệ thống đèn năng lượng mặt trời.

Tuy nhiên, thực tế vẫn còn nhiều hạng mục thiết yếu cần đầu tư, đặc biệt là tại các điểm trường, vì vậy, nhà trường rất mong tiếp tục nhận được sự quan tâm của các doanh nghiệp, tổ chức và cộng đồng, nhằm huy động thêm nguồn lực để từng bước hoàn thiện, nâng cấp cơ sở vật chất, nâng cao chất lượng dạy và học.

Đồng quan điểm, cô Lê Thị Quang chia sẻ, việc triển khai xã hội hóa giáo dục ở các địa phương, đặc biệt là tại những vùng có điều kiện kinh tế - xã hội còn khó khăn vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức, đa phần phụ huynh là lao động phổ thông, thu nhập còn hạn chế nên mức hỗ trợ từ nguồn này chủ yếu là đóng góp ngày công lao động, các nhu yếu phẩm nhỏ lẻ.

Bên cạnh đó, nguồn lực huy động từ các doanh nghiệp, cơ quan hay các tổ chức xã hội tại địa phương vẫn còn hạn chế, bởi phần lớn doanh nghiệp, khu công nghiệp đều tập trung ở các thành phố hoặc khu vực kinh tế phát triển, khiến cho việc kết nối, kêu gọi tài trợ từ các đơn vị, tổ chức bên ngoài gặp rất nhiều trở ngại, dẫn đến công tác xã hội hóa giáo dục ở vùng núi càng thêm khó khăn.

Ngoài ra, vẫn còn một số vướng mắc về hành lang pháp lý khi thực hiện xã hội hóa, quy trình kéo dài và đòi hỏi nhiều giấy tờ, điều này khiến nhà trường đôi khi phải phụ thuộc vào tiến độ xử lý của các cơ quan liên quan, làm giảm tính chủ động trong việc tiếp nhận và sử dụng nguồn lực xã hội hóa.

Cũng theo cô Quang, từ thực tế trên, việc xã hội hóa giáo dục ở miền núi còn gặp nhiều khó khăn. Trước tình hình đó, nhiều cán bộ quản lý, giáo viên đã tận dụng mối quan hệ cá nhân, mạng lưới xã hội và sự chung tay từ cộng đồng để kêu gọi, vận động hỗ trợ quần áo, thiết bị, đồ dùng học tập. Tuy nhiên, sự hỗ trợ này chỉ giải quyết được những nhu cầu nhỏ lẻ, trước mắt, chứ không thể đáp ứng yêu cầu đầu tư tập trung để nâng cấp cơ sở vật chất.

Do đó, để công tác xã hội hóa giáo dục diễn ra thuận lợi, cô Quang đề xuất, cần có cơ chế, chính sách thông thoáng hơn trong việc huy động và tiếp nhận các nguồn lực xã hội hóa giáo dục. Theo đó, nếu các quy định được bổ sung, hoàn thiện theo hướng đơn giản hóa, minh bạch và linh hoạt hơn, trường học sẽ có điều kiện để tiếp cận hiệu quả hơn với các nguồn tài trợ từ doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân có tâm huyết với giáo dục.

Ngoài ra, Nhà nước cần quan tâm đầu tư mạnh mẽ hơn nữa vào hạ tầng cơ sở, các công trình phụ trợ và trang thiết bị công nghệ thông tin tại những vùng sâu, vùng xa, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động dạy và học. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng cao nhận thức của cán bộ, giáo viên và cộng đồng về ý nghĩa, vai trò của xã hội hóa giáo dục, từ đó khơi dậy tinh thần trách nhiệm, sự chung tay, góp sức của toàn xã hội đối với sự nghiệp trồng người.

Đây cũng là giải pháp quan trọng để tạo sự đồng thuận xã hội, từng bước tháo gỡ khó khăn trong quá trình xây dựng và phát triển trường đạt chuẩn quốc gia, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.

Còn theo cô Phạm Thị Thảo, công tác xã hội hóa trong cải tạo, nâng cấp cơ sở vật chất cũng được xác định là một trong những mục tiêu quan trọng trong lộ trình xây dựng trường đạt chuẩn quốc gia.

Hằng năm nhà trường đều chủ động xây dựng kế hoạch xã hội hóa nhằm huy động nguồn lực phục vụ cho việc bổ sung, nâng cấp cơ sở vật chất, góp phần đáp ứng các tiêu chí theo quy định.

Tuy nhiên, do đặc thù địa bàn thuộc vùng đặc biệt khó khăn nên nguồn kinh phí huy động được từ xã hội hóa còn rất hạn chế, ngay cả trong năm thực hiện hiệu quả nhất, tổng số tiền vận động cũng chỉ đạt khoảng 60 triệu đồng.

Để nâng cao cơ sở vật chất nhà trường khang trang, hiện đại, đáp ứng yêu cầu đổi mới, mỗi trường học đều rất cần sự chung tay của xã hội. Tuy nhiên, quá trình quản lý và sử dụng các nguồn lực xã hội hóa cũng cần được chú trọng thực hiện theo nguyên tắc công khai, minh bạch và đúng mục đích. Cách làm này không chỉ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đầu tư, mà còn xây dựng được niềm tin và ủng hộ lâu dài từ phía xã hội.

Cơ quan quản lý và các cơ sở giáo dục cần tăng cường sự kết nối và phối hợp chặt chẽ với các doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cá nhân hảo tâm nhằm đẩy mạnh hoạt động vận động tài trợ, đầu tư cho giáo dục, đặc biệt là tại những địa bàn còn nhiều khó khăn.

Thanh Thúy

Nguồn Giáo Dục VN: https://giaoduc.net.vn/xa-hoi-hoa-giao-duc-con-gap-kho-khan-lanh-dao-truong-mam-non-de-xuat-giai-phap-post254141.gd